Tin tức công nghệ, khoa học kỹ thuật mới nhất tại Việt Nam & các nước trên thế giới. Cập nhật những bài viết về kinh nghiệm, thủ thuật, sản phẩm mới, tin công ...
Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013
Xu hướng điện toán đám mây năm 2013 tại Việt Nam
Viễn thông đang là ngành đạt tỷ suất lợi nhuận cao nhất
Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013
Gửi email, SMS quảng cáo trái phép sẽ bị phạt đến 30 triệu đồng
Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013
Di động mang lại nguồn thu lớn nhất cho VNPT Hà Nội
Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013
CNTT - Đòn bẩy thúc đẩy phát triển nền kinh tế
Hội nghị được tổ chức nhằm quán triệt các nội dung của Nghị quyết 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Nghị quyết của Chính phủ, Chương trình hành động của Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) về xây dựng hạ tầng thông tin đến các Cơ quan, Bộ, Ngành, Địa phương, các doanh nghiệp CNTT-TT.
Hội nghị là cơ hội để các cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và các chuyên gia trao đổi, thảo luận các giải pháp, nhiệm vụ, hành động, phương thức phối kết hợp, huy động nguồn nhân lực… nhằm triển khai phát triển hạ tầng thông tin đồng bộ, hiệu quả.


Vì vậy chúng ta vẫn có thể làm tốt hơn việc triển khai và ứng dụng CNTT, khi mà CNTT đã và đang mang đến giá trị gia tăng hiệu quả đối với nhiều ngành nghề. Và, chúng ta dễ nhận thấy rằng, trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay, tái cơ cấu nền kinh tế hiệu quả rất cần đến CNTT. Do vậy, khi nào CNTT giúp chúng ta tư duy thì mới phát huy hết mọi tiềm năng, xứng đáng là nước mạnh về CNTT”.
Hội nghị gồm 4 phiên chuyên đề chính, trong đó, tại phiên 4 với nội dung “Phát triển công nghiệp CNTT” vào buổi chiều cùng ngày; ông Bùi Thiên Hà, Phó Tổng biên tập Tạp chí Xã hội Thông tin sẽ có tham luận với nội dung “Giải pháp quản lý thiết bị đầu cuối nhằm hạn chế tin nhắn rác, chống buôn lậu và đảm bảo an toàn an ninh trên mạng di động”. Đây là vấn đề nóng, đang được các Bộ, ban, ngành hết sức quan tâm.
Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013
Đô thị thông minh: Xu hướng thời đại CNTT mới
Trong phần thảo luận của mình, ông Vũ Minh Trí, Tổng Giám Đốc Microsoft Việt Nam đã chia sẻ về những vấn đề của các thành phố và đô thị nói chung cũng như thách thức của các thành phố và đô thị hiện đại tại Việt Nam nói riêng. Những vấn đề cơ bản nhất có thể kể đến như: Làm sao có thể tiết kiệm chi phí và phát triển hiệu quả hơn khi thành phố mở rộng, triển khai được các dịch vụ công dân và doanh nghiệp đồng nhất cho toàn bộ các cơ quan quản lý trong thành phố, quản trị và điều tiết nguồn nhân lực, đưa được các thông tin rõ ràng hơn khi ra quyết định và ngân sách, cũng như tạo được tầm nhìn xuyên suốt trong quá trình phát triển tiếp theo.
Chúng ta thường có 3 khu vực giải pháp như sau: GSD (khu vực kết nối và cung cấp dịch vụ công – Gov service delivery and engagement), GWM (độ hiện đại không gian làm việc công – Gov Workplace Modernization) và GIA (Tầm nhìn và độ tin cậy hành chính – Gov Insight and Accountablity).
"Những giải pháp “Kết nối cho một đô thị thông minh” của Microsoft được xây dựng trên cơ sở hạ tầng CNTT nhằm đem lại khả năng dễ phát triển để mở rộng hoặc thu gọn theo nhu cầu và tình hình thực tế của khu vực mà vẫn đảm bảo tính an toàn, bảo mật. Bộ giải pháp của Microsoft cho “Đô thị thông minh” có thể áp dụng và triển khai cho hầu hết các các ngành như Y tế, Giáo dục, khối hành chính công cũng như các nhóm doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, các khu vực dịch vụ…
Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013
Khách truy cập web “đen”, đại lý bị phạt
Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012
Thành lập quỹ học bổng cho sinh viên CNTT
Lễ ký kết bản ghi nhớ thành lập quỹ học bổng và giải thưởng cho sinh viên ngành CNTT giữa Bộ GD&ĐT và công ty Huawei Việt Nam giai đoạn 2012-2014 đã diễn ra vào chiều 26/11.
Quỹ
![]() |
Đại diện của Bộ GD&ĐT cùng công ty Huawei Việt Nam kí vào bản Ghi nhớ về việc thành lập quỹ học bổng/giải thưởng cho sinh viên CNTT Việt Nam. |
Theo bản ghi nhớ này, một số
Buổi lễ ký kết bản ghi nhớ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và công ty TNHH công nghệ
Phía
Thành Duy
Theo Infonet
Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012
Phần mềm gọi điện miễn phí qua mạng Internet... còn đất sống ?
Trước các nguy cơ về an nình và cạnh tranh không lành mạnh của phần mềm gọi điện miễn phí qua mạng Internet, Bộ TT&TT sẽ đề ra chính sách quản lý phù hợp.
Phát biểu tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ năm 2013 của Bộ TT&TT ngày 24/12, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel cho biết, dịch vụ Over the top content (OTT) giúp nhắn tin, gọi điện miễn phí qua mạng Wi-Fi, 3G như Viber, Whatsapp... đang là một nguy cơ với các doanh nghiệp viễn thông nói riêng và các ngành CNTT, truyền thông, truyền hình nói riêng.
Bởi vì, những dịch vụ viễn thông cơ bản như điện thoại, nhắn tin và truyền hình đang chiếm đến 80% doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông (khoảng trên 100.000 tỷ đồng). Tuy nhiên, các dịch vụ này lại đang được cung cấp miễn phí trên mạng bởi các công ty nước ngoài, để từ đó kinh doanh những dịch vụ khác ngoài viễn thông. "Các cuộc gọi , nhắn tin miễn phí qua mạng Wi-Fi, 3G đó sẽ rất khó quản lý về mặt an ninh. Vì thế, Bộ TT&TT nên có chính sách quản lý dịch vụ OTT trên cơ sở không kìm hãm sự phát triển nhưng đảm bảo phát triển bền vững của ngành viễn thông, CNTT và truyền hình", ông Hùng nhấn mạnh.
Về vấn đề này, ông Hải cho rằng, nguy cơ các dịch vụ OTT của doanh nghiệp nội dung nước ngoài như Google, Yahoo... chiếm hết doanh thu từ những dịch vụ viễn thông cơ bản (nhắn tin, gọi điện) và khiến doanh nghiệp viễn thông giống như những "người làm thuê", không có lãi đang xảy ra không chỉ ở Việt Nam mà còn với tất cả các nước trên thế giới. Từ đó, đòi hỏi các nước phải có chính sách quản lý phù hợp.
Chẳng hạn, một số nước như Ả rập có chính sách rất cực đoan là cấm hoàn toàn việc sử dụng phần mềm Viber... nhưng Mỹ và một số nước Châu Âu lại ủng hộ việc người dùng sử dụng những phần mềm này. "Thời gian tới, Cục Viễn thông sẽ cùng một số chuyên gia tổ chức hội thảo về vấn đề này để tìm ra chính sách quản lý phù hợp", ông Hải kết luận.
Gần đây, người dùng tại Việt Nam ngày càng sử dụng nhiều hơn những phần mềm gọi điện Internet miễn phí thông qua mạng Wi-Fi hay 3G giữa các smartphone, trong đó tiêu biểu là các phần mềm Whatsapp, Viber, Line... hay các phần mềm "made in Việt Nam" như Zalo (VNG), FPT Chat (FPT)... Người dùng chỉ cần vào Appstore hay Google Play để tải phần mềm về, đăng nhập số điện thoại, máy sẽ tự động gửi mã xác thực và tìm kiếm trong danh bạ những bạn bè đã dùng ứng dụng. Từ đó, người dùng có thể dễ dàng gọi điện, nhắn tin miễn phí với nhau thông qua kết nối Internet.
Nhiều hãng smartphone cũng trang bị các phần mềm nhắn tin miễn phí nhằm tăng thêm tiện ích cho người sử dụng như Blackberry với công cụ Blackberry Messenger, Apple với ứng dụng Facetime đàm thoại video và iMssenger hỗ trợ nhắn tin đa phương tiện giữa các thiết bị chạy iOS với nhau (iPhone, iPad thậm chí cả MacBook) hay gần đây nhất là Samsung với phần mềm ChatOn.
Đầu tư các dự án ứng dụng CNTT theo hình thức đối tác công – tư (PPP): Suy nghĩ từ một số dự án cụ thể
Đánh giá sự phù hợp về phạm vi áp dụng hình thức đầu tư đối tác công - tư
Theo quy định tại Điều 1 – Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) ban hành kèm theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ (Sau đây goi tắt là Quy chế thí điểm), để một dự án có thể được triển khai áp dụng hình thức đầu tư PPP thì dự án đó phải là dự án phát triển kết cấu hạ tầng và có mục đích cung cấp dịch vụ công.
Tuy nhiên, định nghĩa về dịch vụ công tại Quy chế là chưa rõ ràng. Dẫn đến, các ứng dụng công nghệ thông tin trong nội bộ các cơ quan nhà nước nói chung và hệ thống e-Doc và e-Mail nói riêng không phù hợp với mục đích phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công mà chỉ gián tiếp hỗ trợ việc cung cấp dịch vụ công bởi lẽ các dự án này hướng đến xây dựng, phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin như là công cụ để cung cấp dịch vụ công được nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Đánh giá sự phù hợp với các nguyên tắc áp dụng hình thức đầu tư PPP

Các dự án e-Doc và e-Mail đều đáp ứng được nguyên tắc này bởi lẽ Chính phủ đã xác định rõ định hướng thu hút nguồn vốn của khu vực tư nhân cho các dự án về công nghệ thông tin như đã nêu ở Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 (Việc huy động nguồn vốn doanh nghiệp đáp ứng giải pháp khuyến khích việc huy động các nguồn kinh phí ngoài ngân sách Trung ương (Điểm VI, Mục C, Điều 1, Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015). Bên cạnh đó, việc thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Chính phủ yêu cầu cắt giảm đầu tư công theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh xã hộivà Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ.
Nguyên tắc về vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án
Nguyên tắc này yêu cầu vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án gồm vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, các nguồn vốn thương mại trong nước và quốc tế và các nguồn vốn khác được huy động theo nguyên tắc không dẫn đến nợ công. Đối với các dự áne-Doc và e-Mail, đây là nguyên tắc hoàn toàn có thể được đáp ứng bởi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tại Việt Nam.
Nguyên tắc về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư
Nguyên tắc này sẽ được đáp ứng nếu nhà đầu tư bảo đảm rằng vốn chủ sở hữu của Nhà đầu tư trong Dự án phải đảm bảo tối thiểu bằng 30% phần vốn của khu vực tư nhân tham gia Dự án. Nguyên tắc này là hoàn toàn khả thi đối với lĩnh vực Công nghệ thông tin.
Thực tế, một điểm cần đặc biệt chú ý trong lĩnh vực công nghệ thông tin, hầu hết các doanh nghiệp có nhiều nguồn lực và kinh nghiệm đều là các doanh nghiệp nhà nước (được hiểu là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Một số doanh nghiệp đã có sẵn hệ thống cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin rộng khắp.Trường hợp các doanh nghiệp này được tham giatriển dự án về công nghệ thông tin, cho phí đểxây dựng và phát triển hệ thống,giá thành dịch vụcó thể được giảm đi đáng kể nhờ việc sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có.
Theo quy định tại Điều 9.2 của Quy chế thí điểm, phần tham gia của Nhà nước vào Dự án PPP không vượt quá 30% tổng vốnđầu tư của Dự án. Tuy nhiên,Quy chế thí điểm không đưa ra khái niệm vốn của khu vực tư nhân tham gia vào dự án. Như vậy, có thể suy luận rằng các doanh nghiệp nhà nước cũng có thể sử dụng các nguồn vốn của mình để đầu tư thực hiện Dự án PPP nếu các nguồn vốn đó không phải là vốn đầu tư phát triển và không dẫn đến nợ công. Do đó, đây là một điểm chưa rõ rà ở Quy chế thí điểm.
Nguyên tắc về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện Dự án trên cơ sở cạnh tranh, công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế, phù hợp với pháp luật Việt Nam, theo tập quán và thông lệ quốc tế
Nguyên tắc này hoàn toàn được đáp ứng nếu việc lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện theo đúng Quy chế thí điểm và các quy định của pháp luật về đầu tư và đấu thầu có liên quan.
Đánh giá về sự phù hợp với các lĩnh vực thí điểm đầu tư theo hình thức PPP
Các dự án về công nghệ thông tin nói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riêng không nằm trong các lĩnh vực thí điểm đầu tư theo hình thức PPP theo quy định tại Điều 4, Quy chế thí điểm.
Tuy nhiên, khoản 9, Điều 4, Quy chế thí điểm quy định các lĩnh vực thí điểm đầu tư theo hình thức PPP cũng bao gồm các dự án thuộc lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Do đó, để có thể triển khai dự án e-Doc và e-Mail hình thức PPP theo Quy chế thí điểm, Bộ Thông tin và Truyền thôngcần thiết phải trình Thủ tướng Chính phủ xin phép được triển khai theo Quy chế thí điểm.
Đánh giá về sự phù hợp với các tiêu chí lựa chọn dự án

Các dự án e-Doc và e-Mailkhông thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định số 412/QĐ-TTg ngày 11/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ dự án quan trọng, quy mô lớn, có yêu cầu cấp thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, trong khi Danh mục này là cơ sở để xác định dự án quan trọng, quy mô lớn theo quy định tại Điều Quy chế thí điểm.
Tiêu chí về khả năng hoàn trả vốn cho nhà đầu tư
Khả năng hoàn trả vốn của các dự áne-Doc và e-Mail phụ thuộc vào quy mô đầu tư và tính chất của loại dịch vụ liên quan cung cấp đến đối tượng là cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức. Việc xác định khả năng hoàn trả vốn sẽ được thực hiện đối với từng dự án cụ thể.
Tiêu chí về khả năng khai thác lợi thế công nghệ, kinh nghiệm quản lý, vận hành
Với những doanh nghiệp đã và đang phát triển mạnh mẽ như VNPT, FPT, Vietel, CMC… các dự án công nghệ thông tin nói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riênghoàn toàn có thể khai thác được lợi thế về công nghệ, kinh nghiệm quản lý và vận hành của nhiều doanh nghiệp trên. Dễ nhận thấy, doanh nghiệp trên hiện cung cấp hầu hết các dịch vụ công nghệ thông tin không chỉ cho xã hội mà còn cho cả nhiều cơ quan nhà nước.Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này còn có mối quan hệ cộng tác với các doanh nghiệp công nghệ thông tin quốc tế, dẫn đếncác doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam đã dần làm chủ công nghệ vàcó những bước phát triển nổi bật, trong những năm qua.Như vậy, có thể kết luận rằng các dự án công nghệ thông tin nói chungvà dự án e-Doc và e-Mail nói riêng đáp ứng được ít nhất một trong các tiêu chí lựa chọn dự án và thoả mãn điều kiện quy định tại Điều 5, Quy chế thí điểm.
Đánh giá sự phù hợp về thủ tục đầu tư

- Thủ tục đầu tư theo Quy chế thí điểm đòi hỏi các vấn đề liên quan đến cùng một dự án đầu tư phải trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ít nhất 02 (hai) lần: Phê duyệt Đề xuất dự án; phê duyệt phần tham gia của Nhà nước và cơ chế ưu đãi đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy, mỗi lần thực hiện thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt có thể kéo dài nhiều tháng;
- Thủ tục đầu tư theo Quy chế thí điểm yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải cho ý kiến ở ít nhất 04 bước: (i) thẩm định Đề xuất Dự án; (ii) thẩm định Phần tham gia của Nhà nước; (iii) cho ý kiến về kết quả lựa chọn Nhà đầu tư; và (iv) thẩm tra Dự án. Việc tham gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào quá nhiều bước khiến thủ tục đầu tư trở nên phức tạp;
- Việc lấy ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với kết quả lựa chọn nhà đầu tư chưa phù hợp. Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư cần chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả lựa chọn này.
- Thủ tục đấu thầu bắt buộc để lựa chọn nhà đầu tư theo Quy chế thí điểm không phải luôn luôn phù hợp. Trong một số trường hợp chỉ có một doanh nghiệp được xác định là đủ điều kiện trở thành nhà đầu tư, cần cho phép thực hiện thủ tục chỉ định nhà đầu tư để tránh các lãng phí về thời gian và kinh phí không cần thiết.
Với các phân tích bên trên có thể nhận thấy:V iệc triển khai các dự án về ứng dụng công nghệ thông tintrong nội bộ cơ quan nhà nước nói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riêng theo hình thức PPP theo quy định tại Quy chế thí điểm là chưa khả thi tại thời điểm hiện tại.
Mặc dù, Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo cụ thể về áp dụng hình thức đầu tư hợp tác Nhà nước – Doanh nghiệp cho dự án xây dựng hệ thống e-Doc và e-Mail, tuy nhiên, môi trường pháp lý về hình thức hợp tác Nhà nước – Doanh nghiệp tại Việt Nam là chưa sẵn sàng, do đó, Bộ Thông tin và Truyền thôngcần thiết phải xin cơ chế đặc thù riêng cho lĩnh vực CNTTnói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riêng để đảm bảo triển khai thành công 02 dự án này theo kế hoạch đặt ra trong Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010.
Triển khai các dự án CNTT theo mô hình PPP: Cơ hội và thách thức
Hình thức hợp tác công tư (PPP) đang là một lựa chọn tiềm năng cho các dự án phát triển kết cấu hạ tầng và cung cấp dịch vụ công. Hình thức PPP là việc nhà nước và tư nhân cùng thực hiện dự án trên cơ sở hợp đồng, theo đó tư nhân được phép khai thác công trình, cung cấp dịch vụ công, kinh doanh thu hồi vốn. Hợp đồng này là linh hồn của dự án, thường kéo dài từ 25 năm hoặc hơn và thường có giá trị hợp đồng lớn. Khác với các dự án đầu tư theo hình thức BOT, BT… , ở mô hình PPP nhà nước sẽ đặt đầu bài kèm theo các thông số chi tiết của dự án, chuẩn bị môi trường đầu tư và tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thích hợp.
Mô hình PPP được cho là sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư công, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN nội địa và xa hơn là góp phần phát triển KT-XH nói nhờ tăng cơ hội tiếp cận với dịch vụ xã hội cơ bản. CNTT-TT đang được coi là hạ tầng của hạ tầng, thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội, do đó các dự án CNTT chắc chắn sẽ không thể nằm ngoài xu thế này, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, đâu là cơ hội và đâu là thách thức khi triển khai các dự án CNTT theo mô hình mới mẻ này ở Việt Nam.
Cơ hội của mô hình hợp tác công – tư áp dụng cho các dự án CNTT

Đối với khu vực nhà nước, mô hình đầu tư PPP là một giải pháp cho khoản vốn còn thiếu hụt giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn sẵn có, huy động các nguồn vốn trên thị trường, giảm nợ công, buộc khu vực công ngay từ đầu phải chú trọng đến hiệu quả đầu ra và lợi ích đạt được. Mô hình PPP tận dụng được những kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của khu vực tư nhân, chia sẻ rủi ro giữa những đối tác.
Đối với khu vực tư nhân, dựa vào quy trình lựa chọn nghiêm ngặt trên cơ sở các tiêu chuẩn cơ bản và nghiên cứu khả thi, PPP có khả năng giảm thiểu rủi ro đối với các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt trong giai đoạn đầu của dự án. Điều này sẽ sàng lọc được các dự án để lựa chọn được các dự án có chất lượng cao. Hơn nữa, dự án PPP còn tận dụng được sự hỗ trợ của Chính phủ trong các thủ tục đấu thầu, chuẩn bị chi tiết dự án, định hình khả năng vay vốn. Theo quy chế thí điểm hiện hành thì nhà nước còn có chính sách ưu đãi, thuế, điều kiện đầu tư, thậm chí kể cả lập báo cáo nghiên cứu khả thi, hợp đồng dự án. Kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước cho thấy khuôn khổ PPP có khả năng trở thành một gạch nối liên kết những thiếu hụt giữa nhu cầu cần thiết của Việt Nam về đầu tư cơ sở hạ tầng và hoạt động cấp vốn, sự đổi mới và tính hiệu quả mà các nhà đầu tư tư nhân có thể mang lại.
Cơ hội phát triển đầu tư theo mô hình PPP nói chung còn thể hiện ở sự quyết tâm của Chính phủ thông qua Quyết định 71/2010/QĐ-TTg ngày 9/11/2010 ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP và việc thành lập Ban chỉ đạo cấp Chính phủ về PPP do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đứng đầu, thành viên là lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan. Trong lĩnh vực CNTT, nhà nước khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển và ứng dụng CNTT trong đời sống xã hội, cơ quan nhà nước, điều này đã được đề cập trong Đề án sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT ban hành kèm theo Quyết định 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ.
Hơn nữa, triển khai Quyết định 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015, tại các cơ quan nhà nước, ứng dụng CNTT hiện đang được đẩy mạnh nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất làm việc của cán bộ, công chức. Từ góc độ của các đơn vị chuyên trách về CNTT trong khối các cơ quan nhà nước, trách nhiệm vì thế trở nên ngày càng nặng, khối lượng công việc tăng cao. Tuy nhiên, vấn đề về chỉ tiêu biên chế, kinh phí dành cho CNTT cũng như tiền lương của khu vực này hiện tại không theo kịp với yêu cầu thực tế dẫn đến hiệu quả công việc không cao, chất lượng hạn chế. Ngoài ra, trong bối cảnh nhà nước chủ trương đẩy mạnh thắt chặt chi tiêu công, tinh giảm biên chế và thu gọn bộ máy thì áp lực tìm mô hình mới đáp ứng đòi hỏi đặt ra là rất lớn và cấp thiết. Một giải pháp hiện đang rất được quan tâm chính là cơ chế thuê ngoài, trong đó cơ quan nhà nước sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp do các tổ chức, doanh nghiệp bên ngoài cung cấp nhằm tăng cường hiệu quả ứng dụng CNTT, tránh lãng phí khi phải đầu tư vào những hệ thống tốn kém mà hiệu quả sử dụng không được cao. Đây chính là cơ hội để thúc đẩy đầu tư và cung cấp dịch vụ CNTT theo hình thức đối tác công – tư nhằm thu hút, tận dụng được các nguồn lực của xã hội trong nước cùng tham gia xây dựng, phát triển, vận hành, duy trì các hệ thống CNTT trong các cơ quan nhà nước.
Thách thức khi triển khai dự án CNTT theo hình thức PPP

Quy chế thí điểm đã mở đường cho các đề xuất tự nguyện, cho phép sáng tạo và cởi mở hơn với khu vực tư nhân. Tuy nhiên, lo lắng của nhà đầu tư về một quy trình cạnh tranh không “thực sự” minh bạch vẫn còn tồn tại, khi mà khả năng thắng thầu thấp thì họ không bao giờ bỏ tiền đầu tư. Cuối cùng là chưa có hướng dẫn cụ thể việc bố trí và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước cho công tác chuẩn bị dự án PPP.

Với các dự án CNTT, phần lớn doanh nghiệp mạnh đủ năng lực tham gia các dự án PPP là doanh nghiệp nhà nước, hoặc có vốn của nhà nước. Tuy nhiên, theo quy định hiện tại của Quyết định 71/2010/QĐ-TTg, những doanh nghiệp loại này sẽ bị hạn chế tham dự, điều này gây khó khăn triển khai mô hình PPP cho các dự án CNTT. Do đó, cần có quy định và hướng dẫn chi tiết để các doanh nghiệp nhà nước có thể tham gia các dự án CNTT theo mô hình PPP. Việc này không những thúc đẩy thị trường nhà đầu tư trong nước mà còn mang lại cho các nhà thầu quốc tế các đối tác tiềm năng.
Việc giới hạn phần tham gia của nhà nước trong các dự án PPP theo Quyết định 71/2010/QĐ-TTg cũng là một yếu tố hạn chế sự hưởng ứng của phía tư nhân nói chung. Đặc biệt đối với các dự án CNTT, tổng vốn đầu tư nhỏ hơn nhiều lần so với các dự án giao thông và tư nhân hoàn toàn có thể đầu tư nhiều hơn 70%, thì giới hạn này cần phải rất linh hoạt để hấp dẫn khu vực tư nhân tham gia.
Về xu thế thuê ngoài dịch vụ CNTT như trình bày ở trên, hiện nhà nước chưa có định mức chi cho tư nhân khi cung cấp dịch vụ này, chưa có quy định xác định năng lực của các đơn vị cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, trên hết vẫn là vấn đề đảm bảo tuyệt đối ATTT dữ liệu của cơ quan nhà nước đang là rào cản lớn khi triển khai thuê ngoài dịch vụ CNTT cho cơ quan nhà nước. Yêu cầu đặt ra là phải có khung pháp lý đầy đủ về an toàn an ninh thông tin, tuy nhiên tất cả vẫn còn đang trong quá trình dự thảo.
Qua phân tích trên, có thể thấy trọng tâm để thu hút khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực CNTT theo mô hình PPP nằm ở sự quyết tâm cao của các cấp lãnh đạo nhằm hoàn thiện khung pháp lý đủ rộng, cơ chế tài chính cũng như chuẩn bị đủ nguồn lực cho các dự án có thể triển khai thành công.
Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012
Những thủ thuật tìm kiếm hữu ích trong Gmail !
Tìm theo kích thước là một phương thức hoàn toàn mới trong Gmail cho phép người dùng lọc ra những Email có kích thước xác định nào đó. Theo mặc định, đơn vị được sử dụng chủ yếu ở đây dựa trên kích thước Byte, nhưng bằng cách thêm ký tự “M” ngay sau số nhập của bạn thì chúng ta có thể tìm kiếm cho các email với kích thước MB. Ví du: Nếu tôi muốn tìm những email bằng 3MB, tôi sẽ nhập là “size:3M”, tương tự với những email nhỏ hơn 3MB thì nhập “smaller:3M” và những email lớn hơn 3MB là “larger:3M”.
Với những bức thư tồn tại từ rất lâu thì cách tốt nhất để bạn lọc ra chính là sử dụng phương thức tìm kiếm theo thời gian. Gmail cho phép người dùng tìm email theo ngày nhận/ngày gửi chẳng hạn như sau đó, trước đó, cũ hơn, mới hơn. Ví dụ: Nếu bạn nhập “after: 2012/10/10”, nó sẽ hiển thị những email trong hộp thư sau ngày này. Bạn cũng có thể sử dụng 2 cách khai thác đồng thời để tìm email trong một khoảng thời gian nào đó, ví dụ như “after: 2012/04/10 before: 2012/10/10”. Trong trường hợp không muốn những rắc rối của việc tìm kiếm theo ngày tháng cụ thể thì bạn nên sử dụng cách khai thác theo khóa older_than hoặc newer_than, ví dụ: Với những email được gửi cách đây hơn 2 năm thì nhập là “older_than:2y”.
Theo các tham số email cụ thể
Thông thường chúng ta sẽ có 5 thông số cơ bản để nhập mỗi khi gửi một email đó là: to:/from:, cc:, bcc:, subject và body. Thật đơn giản, bạn chỉ cần một trong số các từ này để tìm kiếm theo địa chỉ gửi/nhận hoặc nội dung soạn thảo trong thư, đặc biệt là tìm ra những người người gửi email tới bạn với một chủ đề nào đó. Ví dụ: Để tìm kiếm những email từ địa chỉ của cộng tác viên Thuy Van với subject “Gui bai cong tac”, tôi sẽ nhập là “from: Thuy Van subject: gui bai cong tac”. Ngoài ra, nếu bạn muốn tìm email có chứa các tệp tin đính kém thì sử dụng khóa khai thác là: has: attachment.

Bằng cách sử dụng từ khóa “OR”, bạn có thể kết hợp khóa khai thác tìm kiếm khác nhau. Điều này rất hữu ích cho bạn khi muốn lọc email từ nhiều nguồn, ví dụ: nếu bạn cần tìm các email được gởi bởi 2 hay nhiều người thì nhập lệnh “from:name1 OR from:name2”.
Với phương thức tìm kiếm này, kết quả trả về sẽ dựa vào tên hoặc phần mở rộng của các tệp tin đính kèm trong đó. Chẳng hạn như với cụm từ “Filename:JPG” sẽ trả về kết quả cho các tệp tin theo định dạng . PNG phổ biến và có tên là Filename hoặc “letter.docx” sẽ trả về kết quả cho các tệp tin theo định dạng .docx và có tên là letter. Chúng ta có thể sử dụng nhiều định dạng khác như PDF, PPT, MP3…

Theo tên một thư mục cụ thể

Theo những email đọc và chưa đọc
Trong hộp thư của bạn có thể có những bức thư đã đọc và cả những thư chưa đọc, trong đó thư chưa đọc nằm rải rác ở từng trang chứ không phải là trang hiện tại. Vậy tất cả những gì chúng ta cần làm khi thực hiện tìm kiếm email theo cách thức này là thêm từ read hoặc unread vào sau dấu “:” của từ is tức là “is:unread” hoặc “is:read”.
THU HƯỜNG
6 tiện ích Firefox cho người mê Facebook
Tự động đăng xuất Facebook

Gỡ bỏ giao diện Timeline
Chặn Facebook trên các trang web khác

Ẩn mình khi chat trên Facebook

Tối ưu Facebook với Social Fixer

Thanh công cụ Facebook và Social API


10 tính năng ẩn hữu ích trong Windows 8








