Hiển thị các bài đăng có nhãn cntt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cntt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013

Xu hướng điện toán đám mây năm 2013 tại Việt Nam

Năm 2013 được đánh giá là năm mà các doanh nghiệp sẽ nhận thức được vai trò chiến lược của điện toán đám mây trong việc giúp họ trở bên hiệu suất, có tính cạnh tranh và linh hoạt hơn khi mở rộng sang các thị trường mới. Ông Jon Robertson, tổng giám đốc VMware khu vực ASEAN chia sẻ kỳ vọng việc nổi lên của trung tâm dữ liệu do phần mềm định nghĩa, tính di động và nhận thức của DNVVN sẽ thúc đẩy ứng dụng điện toán đám mây ở quy mô lớn, khiến 2013 là năm chuyển đổi mạnh mẽ của ngành CNTT lẫn các doanh nghiệp.


Những ưu tiên của CIO thay đổi theo hướng CNTT cần phải vận hành như một doanh nghiệp

Vai trò của CIO ngày một tăng cao khi các doanh nghiệp đòi hỏi họ phải là những lãnh đạo CNTT tạo ra thay đổi quan trọng trên toàn tổ chức. Điều này đồng nghĩa với việc bộ phân CNTT có thể không còn là những trung tâm chỉ ngốn tiền ngân sách nữa, mà sẽ áp dụng quan điểm CNTT dựa trên dịch vụ, tạo ảnh hưởng tích cực lên hoạt động của một doanh nghiệp theo cách dùng chung các dịch vụ được chia sẻ.

Một trong những mục tiêu của điện toán đám mây là cung cấp dịch vụ cho người dùng doanh nghiệp và nền tảng CNTT-dạng-dịch-vụ (IT-as-a-service). Điều đó có nghĩa rằng CNTT không còn là một trung tâm tiêu tốn tiền của doanh nghiệp nữa, mà thay vào đó sẽ tự trang trải chi phí nhờ những dịch vụ mà nó "bán" cho người dùng trong doanh nghiệp. Do vậy CNTT bản thân nó phải là một thực thể kinh doanh, hiểu rõ chi phí và tính phí phù hợp đối với các bộ phận kinh doanh, đồng thời phải đảm bảo mức cam kết dịch vụ SLA cũng như các chất lượng dịch vụ khác mà những 'khách hàng trả tiền' trong doanh nghiệp mong muốn được hưởng.

Các doanh nghiệp có thể triển khai ngay trung tâm dữ liệu do phần mềm định nghĩa

Một trung tâm dữ liệu do phần mềm định nghĩa là việc tất cả các hạ tầng được ảo hóa và cung cấp dưới dạng dịch vụ, và việc quản lý trung tâm dữ liệu này được thực hiện hoàn toàn tự động bởi phần mềm. Giải pháp VMware vCloud Suite được coi là một hướng tiếp cận cho các doanh nghiệp giải quyết tốt các vấn đề về tích hợp, quản lý và bảo mật mà còn cho phép các nhà quản lý doanh nghiệp ứng dụng hiệu quả điện toán đám mây.

Ảo hóa máy bàn giúp thúc đẩy tính di động, mở rộng văn phòng chi nhánh và chiến lược dịch chuyển hệ thống Windows

VMware dự đoán rằng năm 2013 sẽ chứng kiến điện toán trên một hoặc nhiều hệ thống máy khách trở thành chủ đạo, cùng với đó là một loạt các quy trình điện toán được thực thi trên đám mây. Với việc Windows XP chỉ được hỗ trợ đến cuối năm 2013, các doanh nghiệp sẽ cần có cách thức dễ dàng hơn để nâng cấp hệ điều hành của họ nhưng phải tối thiểu hóa sự cố gián đoạn đối với hoạt động kinh doanh.

Ảo hóa trở thành xu thế chủ đạo trong DNVVN

Ảo hóa sẽ trở thành xu thế chủ đạo trong các DNVVN tại Việt Nam khi mà các doanh nghiệp ngày càng chú trọng vào việc mở rộng lợi ích của ảo hóa nhằm nâng cao độ sẵn sàng của CNTT cũng như năng lực sao lưu/khôi phục. Nhờ tận dụng lợi thế của các dịch vụ điện toán đám mây, DNVVN sẽ không phải lo lắng gì về cách thức xây dựng và duy trì hạ tầng CNTT để trang bị cho nhân viên cách truy cập tới dữ liệu và ứng dụng doanh nghiệp một cách bảo mật.

Thanh Vân

Viễn thông đang là ngành đạt tỷ suất lợi nhuận cao nhất

Theo báo cáo bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2012 (VNR 500), xét theo ngành nghề hoạt động, ngành viễn thông và CNTT có tỷ suất lợi nhuận cao nhất (46,65%), vượt trên các ngành khác như ngành hóa chất (37,18%), ngành cơ khí (27,97%), ngành nông lâm nghiệp (27,28%)...

Kết quả khả quan này trái ngược hoàn toàn với ngành điện, khi tỷ suất lợi nhuận của ngành đang đạt mức âm do chi phí phát sinh cao hơn doanh thu đạt được. Thông tin trên được công bố tại buổi lễ công bố VNR 500 ngày 18/1/2013 nhằm tôn vinh và ghi nhận những thành quả của các doanh nghiệp lớn Việt Nam thu được trong năm 2011.

Ông Bùi Quốc Việt (đứng giữa), Giám đốc Trung tâm Thông tin và Quan hệ công chúng của VNPT lên nhận chứng nhận VNR 500 năm 2012.

Ngoài ra, trong top 10 doanh nghiệp đứng đầu danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam có đến 2 doanh nghiệp thuộc ngành viễn thông và CNTT là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) với vị trí thứ 3 (bằng với vị trí năm 2011) và Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) ở vị trí thứ 6 (tăng một bậc so với VNR 500 năm 2011). Bên cạnh đó, trong danh sách VNR 500 năm 2012 còn có tên Công ty Thông tin di động VMS-MobiFone (ở vị trí thứ 22) và Công ty cổ phần FPT (vị trí thứ 29), Bưu điện TP Hồ Chí Minh (vị trí 381), Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn-SPT (vị trí 427) và Công ty TNHH Truyền hình Cáp Saigontourist (vị trí 487).

Báo cáo bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2012 (VNR 500) do công ty Vietnam Report thực hiện cũng cho thấy, các doanh nghiệp VNR 500 hoạt động khá hiệu quả trong năm 2011 dù tình hình kinh tế không mấy khả quan khi tỷ lệ lợi nhuận trung bình đạt 20%, đồng nghĩa với việc cứ 10 đồng vốn bỏ ra, doanh nghiệp thu về được 2 đồng lãi.

Bảng xếp hạng VNR 500 là kết quả nghiên cứu mà Vietnam Report xây dựng dựa trên các nguyên tắc khoa học, độc lập và tuân theo các chuẩn mực quốc tế. Bảng xếp hạng là sự ghi nhận cũng như đánh giá khách quan kết quả hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được trong mỗi năm tài khóa. Được dựa trên phương pháp luận của mô hình Fortune500 của Hoa Kỳ, Bảng xếp hạng VNR 500 đánh giá thứ hạng của doanh nghiệp dựa trên tiêu chí chính là doanh thu, đồng thời là các tiêu chí như: lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng, lao động và tài sản... Bên cạnh Bảng xếp hạng Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, Vietnam Report cũng công bố Bảng xếp hạng 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. 

Trước đó, tháng 10/2012, Công ty Vietnam Report cũng đã công bố Bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011 (bảng xếp hạng V1000). Kết quả công bố cho thấy, vượt qua nhiều doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, khoáng sản, xăng dầu, bảo hiểm…, hai vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng V1000 đều thuộc về các doanh nghiệp viễn thông là Tập đoàn Viettel và Công ty Thông tin di động VMS - MobiFone. Cùng với 2 đơn vị này, Top 10 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập cao nhất còn có sự góp mặt của một doanh nghiệp viễn thông nữa, đó là Tập đoàn VNPT - đứng ở vị trí thứ 9.

Theo ICTnews

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Gửi email, SMS quảng cáo trái phép sẽ bị phạt đến 30 triệu đồng

Theo Dự thảo Nghị định Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, CNTT và tần số vô tuyến điện, nếu các tổ chức, cá nhân gửi email, SMS quảng cáo khi chưa nhận được sự đồng ý của người nhận sẽ bị phạt tiền từ 20 triệu đến 30 triệu đồng.

Dự thảo Nghị định cũng quy định các mức phạt đối với các hành vi vi phạm về email, SMS quảng cáo khác như mức phạt tiền 10-20 triệu đồng nếu như các cá nhân, tổ chức gửi quá 1 email/ SMS có nội dung tương tự nhau tới một địa chỉ email/thuê bao trong vòng 24 giờ hoặc gửi SMS quảng cáo ngoài khoảng thời gian từ 7 giờ đến 22 giờ hàng ngày mà không có thỏa thuận khác với người nhận.


Bên cạnh đó, số tiền phạt tối đa 5 triệu đồng sẽ được áp dụng nếu email/ SMS quảng cáo không có phần nhận thông tin cho phép người nhận từ chối hay không chấm dứt việc gửi email/ SMS quảng cáo hay cung cấp dịch vụ nội dung qua tin nhắn ngay sau khi nhận được yêu cầu từ chối của người dùng; mức phạt sẽ lên tối đa đến 10 triệu đồng nếu cá nhân, tổ chức không lưu lại thông tin đăng ký nhận, thông tin yêu cầu từ chối, thông tin xác nhận yêu cầu từ chối email/ SMS quảng cáo trong thời gian 60 ngày.

Các hành vi bao gồm cung cấp dịch vụ nhắn tin qua mạng Internet có máy chủ dịch vụ gửi tin nhắn không đặt tại Việt Nam; không cung cấp công cụ tiếp nhận thông báo tin nhắn rác từ người sử dụng, công cụ đăng ký nhận và từ chối tin nhắn quảng cáo; không triển khai hệ thống ngăn chặn tin nhắn rác tối thiểu có khả năng ngăn chặn tin nhắn rác theo nguồn gửi và từ khóa trong nội dung tin nhắn gửi hoặc không cho phép doanh nghiệp đã được cấp mã số quản lý kết nối kỹ thuật với hệ thống của mình để cung cấp dịch vụ nội dung qua tin nhắn hoặc dịch vụ quảng cáo bằng tin nhắn sẽ bị phạt từ 50 triệu đến 70 triệu đồng.

Theo Giaoducvathoidai.vn

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

Di động mang lại nguồn thu lớn nhất cho VNPT Hà Nội

Với tỷ trọng lên tới 28%, dịch vụ VinaPhone đã trở thành dịch vụ mang lại doanh thu lớn nhất trong tổng doanh thu Viễn thông - CNTT của VNPT Hà Nội trong năm 2012 vừa qua.

Theo VNPT Hà Nội, trong năm 2012, thị phần dịch vụ viễn thông, CNTT của doanh nghiệp ổn định, có sự tăng trưởng khả quan. Dịch vụ FiberVNN tăng từ 31% (tháng 6/2011) lên 38% (tháng 7/2012); Dịch vụ VinaPhone tăng nhẹ từ 30,6% (tháng 1/2012) lên 30,8% (tháng 10/2012); Dịch vụ MegaVNN giữ ổn định ở mức 55%; đặc biệt, dịch vụ điện thoại cố định bao gồm cả hữu tuyến và Gphone ổn định ở mức 87%.


2012 là năm VNPT Hà Nội tập trung mạnh cho phát triển, nâng cao chất lượng mạng lưới, hỗ trợ khách hàng. Doanh nghiệp đã kiểm tra rà soát, đảm bảo an toàn mạng lưới trên địa bàn, đặc biệt là an toàn cho các truyền dẫn và các node mạng quan trọng. VNPT Hà Nội đã triển khai nhiều giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng ổn định cho các dịch vụ truyền thống và nâng cao chất lượng dịch vụ mới. Tỷ lệ sửa chữa điện thoại bình quân cả khu vực nội và ngoại thành đạt 96,05%; tỷ lệ hỗ trợ gián tiếp thành công của dịch vụ băng rộng trong vòng 1 giờ đạt 99,69%.

VNPT Hà Nội cũng đã tập trung phát triển kênh bán hàng rộng khắp trên toàn địa bàn, đẩy mạnh công tác bán hàng, chủ động tiếp cận khách hàng để cung cấp dịch vụ và kịp thời hỗ trợ, chăm sóc khách hàng. Với mạng lưới 35 cửa hàng giao dịch, 51 đại lý đa dịch vụ, 80 Bưu cục của Bưu điện Hà Nội, 5.435 điểm bán lẻ VinaPhone, 600 cộng tác viên thu cước và các đội tiếp thị bán hàng lưu động, VNPT Hà Nội hoàn toàn chủ động trong việc tiếp cận và cung cấp dịch vụ cho khách hàng trên toàn địa bàn.

Các chương trình chăm sóc khách hàng hướng tới nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ cung cấp, bước đầu đã tạo được lòng tin với khác hàng. Với mục tiêu phát triển bền vững, năm qua, VNPT Hà Nội không tổ chức ồ ạt các đợt khuyến mại mà điều chỉnh, áp dụng cơ chế khuyến mại hướng tới các khách hàng thực sự có nhu cầu, tập trung vào các dịch vụ phát triển tốt.

Bên cạnh công tác kinh doanh, phục vụ, 2012 cũng là năm VNPT Hà Nội hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị. Đơn vị đã đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, phục vụ sự chỉ đạo điều hành của các cơ quan Đảng, Nhà nước đóng trên địa bàn, phục vụ các sự kiện chính trị, văn hóa lớn và công tác phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai.

VNPT Hà Nội đã hỗ trợ 34 phiên giao ban trực tuyến của Chính phủ và Quốc hội, 8 phiên giao ban UBND Tp. Hà Nội với các quận, huyện. Cung cấp các dịch vụ trên mạng UBND cấp 1 như truy nhập Internet tập trung tốc độ cao, dịch vụ hành chính công (công văn điện tử, email…), dịch vụ đăng ký kinh doanh trực tuyến của Sở Kế hoạch và Đầu tư, kết nối các phòng tài chính kế toán tại các UBND Quận/Huyện/Thị xã của Kho bạc Nhà nước Hà Nội. VNPT Hà Nội cũng đã thực hiện khảo sát mạng tại 576 điểm Phường/Xã/Thị trấn để xây dựng cấu hình kết nối với mạng của UBND Thành phố.

Năm 2013, VNPT Hà Nội sẽ tiếp tục phát triển ổn định và bền vững, giữ vững thị phần các dịch vụ truyền thống, tập trung phát triển, tăng thị phần dịch vụ FiberVNN và các dịch vụ mới. Để đạt được các chỉ tiêu này, doanh nghiệp sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao uy tín và hình ảnh thương hiệu doanh nghiệp.

VNPT Hà Nội sẽ tập trung phát triển mạnh các dịch vụ di động, FiberVNN, MegaVNN, MyTV, Truyền số liệu, hợp tác phát triển các dịch vụ mới, dịch vụ nội dung và dịch vụ ứng dụng thương mại điện tử; tăng cường hợp tác kinh doanh sản phẩm, thiết bị viễn thông, CNTT phục vụ nhu cầu của khách hàng. VNPT đặt mục tiêu sẽ có thêm 20.400 thuê bao di động VinaPhone trả sau, 300.000 thuê bao VinaPhone trả trước, 6000 thuê bao FiberVNN và 2.100 thuê bao MyTV.

Theo Vnmedia

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

CNTT - Đòn bẩy thúc đẩy phát triển nền kinh tế

Ngày 15/01, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Triển khai Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về Phát triển hạ tầng Thông tin.

Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải phát biểu chđạo tại Hội ngh

Hội nghị được tổ chức nhằm quán triệt các nội dung của Nghị quyết 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Nghị quyết của Chính phủ, Chương trình hành động của Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) về xây dựng hạ tầng thông tin đến các Cơ quan, Bộ, Ngành, Địa phương, các doanh nghiệp CNTT-TT.

Hội nghị là cơ hội để các cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và các chuyên gia trao đổi, thảo luận các giải pháp, nhiệm vụ, hành động, phương thức phối kết hợp, huy động nguồn nhân lực… nhằm triển khai phát triển hạ tầng thông tin đồng bộ, hiệu quả.


Toàn cảnh Hội nghị

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đánh giá cao sáng kiến của Bộ TT&TT về việc tổ chức Hội nghị này: “Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, năm 2013 chúng ta cần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, vì đây là môi trường hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực ngành nghề. Kinh tế vĩ mô khó khăn cũng là một thử thách năng lực cạnh tranh của các ngành. Tính đến năm 2012, tổng doanh thu đạt hơn 20 tỷ USD (riêng doanh thu từ công nghiệp CNTT đạt hơn 14 tỷ USD, tăng trưởng 20%, đây là con số rất ấn tượng trong điều kiện như hiện nay).

Vì vậy chúng ta vẫn có thể làm tốt hơn việc triển khai và ứng dụng CNTT, khi mà CNTT đã và đang mang đến giá trị gia tăng hiệu quả đối với nhiều ngành nghề. Và, chúng ta dễ nhận thấy rằng, trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay, tái cơ cấu nền kinh tế hiệu quả rất cần đến CNTT. Do vậy, khi nào CNTT giúp chúng ta tư duy thì mới phát huy hết mọi tiềm năng, xứng đáng là nước mạnh về CNTT”.

Hội nghị gồm 4 phiên chuyên đề chính, trong đó, tại phiên 4 với nội dung “Phát triển công nghiệp CNTT” vào buổi chiều cùng ngày; ông Bùi Thiên Hà, Phó Tổng biên tập Tạp chí Xã hội Thông tin sẽ có tham luận với nội dung “Giải pháp quản lý thiết bị đầu cuối nhằm hạn chế tin nhắn rác, chống buôn lậu và đảm bảo an toàn an ninh trên mạng di động”. Đây là vấn đề nóng, đang được các Bộ, ban, ngành hết sức quan tâm.

PV

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

Đô thị thông minh: Xu hướng thời đại CNTT mới

Tại buổi hội đàm của Diễn đàn CEO toàn cầu diễn ra ngày 11/01/2013, trong khuôn khổ thảo luận về “Đô Thị Thông minh”, Microsoft đã chia sẻ về giải pháp “Đô thị Thông minh và hướng ứng dụng cho thị trường nội địa”. 


Với mục tiêu hướng đến một thành phố thực sự tốt hơn, “Đô thị Thông minh” thường được định nghĩa trên 6 phương diện chủ đạo là: năng lực kinh tế, ứng dụng công nghệ trong các dịch vụ công, nguồn tài nguyên về con người, môi trường sống thân thiện, chất lượng cuộc sống người dân và cuối cùng là chính quyền điện tử. Các tiêu chí này được xây dựng tương ứng theo khả năng cạnh tranh của khu vực, giao thông và CNTT, tài nguyên về cơ sở vật chất, thiên nhiên, con người và vốn xã hội, chất lượng sống và sự tham gia của công dân trong công tác quản trị của các thành phố.

Trong phần thảo luận của mình, ông Vũ Minh Trí, Tổng Giám Đốc Microsoft Việt Nam đã chia sẻ về những vấn đề của các thành phố và đô thị nói chung cũng như thách thức của các thành phố và đô thị hiện đại tại Việt Nam nói riêng. Những vấn đề cơ bản nhất có thể kể đến như: Làm sao có thể tiết kiệm chi phí và phát triển hiệu quả hơn khi thành phố mở rộng, triển khai được các dịch vụ công dân và doanh nghiệp đồng nhất cho toàn bộ các cơ quan quản lý trong thành phố, quản trị và điều tiết nguồn nhân lực, đưa được các thông tin rõ ràng hơn khi ra quyết định và ngân sách, cũng như tạo được tầm nhìn xuyên suốt trong quá trình phát triển tiếp theo. 


Để tạo dựng được Đô thị thông minh, việc đáp ứng được các nhu cầu cơ bản – đang ngày càng thay đổi - của cấp lãnh đạo thành phố, của công dân cũng như tầng lớp cán bộ viên chức là hết sức quan trọng. Với công dân, họ mong muốn các dịch vụ ngày càng được cá nhân hóa với chất lượng cao, ở mọi địa điểm.

Chúng ta thường có 3 khu vực giải pháp như sau: GSD (khu vực kết nối và cung cấp dịch vụ công – Gov service delivery and engagement), GWM (độ hiện đại không gian làm việc công – Gov Workplace Modernization) và GIA (Tầm nhìn và độ tin cậy hành chính  – Gov Insight and Accountablity).

"Những giải pháp “Kết nối cho một đô thị thông minh” của Microsoft được xây dựng trên cơ sở hạ tầng CNTT nhằm đem lại khả năng dễ phát triển để mở rộng hoặc thu gọn theo nhu cầu và tình hình thực tế của khu vực mà vẫn đảm bảo tính an toàn, bảo mật. Bộ giải pháp của Microsoft cho “Đô thị thông minh” có thể áp dụng và triển khai cho hầu hết các các ngành như Y tế, Giáo dục, khối hành chính công cũng như các nhóm doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, các khu vực dịch vụ…

Phương Minh

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

Khách truy cập web “đen”, đại lý bị phạt

Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, CNTT và tần số vô tuyến điện đưa ra chế tài phạt tiền đối với các đại lý Internet, nếu để người sử dụng truy cập, xem, tải các thông tin, hình ảnh có nội dung đồi trụy, cờ bạc, mê tín dị đoan. Nhà cung cấp dịch vụ e ngại tính khả thi của quy định này.

Không quản được hoạt động của khách hàng, phạt tới 10 triệu đồng

Theo quy định tại dự thảo Nghị định, sẽ phạt tiền từ 5 đến 10 triệu đồng đối với các đại lý Internet nếu để người sử dụng truy cập, xem, tải các thông tin, hình ảnh có nội dung đồi trụy, cờ bạc, mê tín dị đoan. Ngoài ra, số tiền phạt lên tới 10 triệu đồng cũng được áp dụng nếu các đại lý Internet để người sử dụng máy tính thực hiện các hành vi bị cấm như tạo ra, cài đặt, phát tán các phần mềm độc hại, chống phá nhà nước, tiết lộ bí mật nhà nước...; sử dụng đường truyền thuê bao cá nhân để cung cấp dịch vụ truy nhập Internet cho công cộng hay hoạt động từ 0-8h hàng ngày hoặc không tuân thủ thời gian hoạt động do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định….


Còn đối với các điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng, số tiền phạt sẽ lên tới 20 triệu đồng nếu vi phạm các hành vi bao gồm: điểm cung cấp dịch vụ nằm trong bán kính của các trường tiểu học, THCS, THPT dưới 200m; không treo biển "Điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng"; hoạt động ngoài khoảng thời gian từ 8 giờ đến 22 giờ hàng ngày; không có đủ ánh sáng hoặc độ chiếu sáng không đồng đều trong phòng máy; tổng diện tích các phòng máy nhỏ hơn 50m2 tại các khu vực đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I, loại II, loại III...

Có khả thi?

Một đại diện của Cty Điện toán truyền số liệu VDC chia sẻ, quy định điểm truy nhập Internet sẽ bị phạt từ 5-10 triệu đồng khi "để người sử dụng Internet sử dụng các tính năng của máy tính thực hiện các hành vi bị cấm tại Điều 5 Nghị định quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng" và "để người sử dụng truy cập, xem, tải các thông tin, hình ảnh, phim có nội dung đồi trụy, cờ bạc, bói toán, mê tín dị đoan" chưa thực sự hợp lý. Bởi vì, trên thực tế, đại lý Internet không thể nào quản lý, giám sát hết được việc người sử dụng tải về máy hay xem cái gì tại địa điểm truy nhập Internet.

"Thiết nghĩ, cơ quan quản lý nên nghiên cứu, xem xét đưa ra giải pháp phù hợp hơn cho trường hợp này”, vị này nói. “Ví dụ, yêu cầu chủ đại lý cài đặt phần mềm ngăn chặn việc truy nhập các website bị “cấm”, hoặc có những chế tài phù hợp với những khách hàng cố tình truy nhập khi tại địa điểm truy nhập Internet đã có khuyến cáo”.

Dự kiến, Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, CNTT và tần số vô tuyến điện sẽ được trình Chính phủ vào giữa tháng 3/2013 và có hiệu lực từ tháng 7/2013.

Dự thảo này cũng đưa ra mức phạt 100 - 150 triệu đồng đối với hành vi không cơ cấu lại vốn sở hữu đối với doanh nghiệp viễn thông thuộc danh mục do Thủ tướng Chính phủ quyết định; phạt tiền từ 150 - 200 triệu đồng về việc nắm cổ phần chi phối không đúng quy định đối với doanh nghiệp thuộc danh mục doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng do Nhà nước nắm cổ phần chi phối.

Doanh nghiệp đồng thời sở hữu trên mức quy định đối với vốn điều lệ hoặc cổ phần trong hai hay nhiều doanh nghiệp viễn thông khác nhau cùng kinh doanh dịch vụ viễn thông thuộc Danh mục dịch vụ viễn thông do Bộ Thông tin và Truyền thông quy định cũng bị phạt từ 150 – 200 triệu đồng.

Theo Báo Pháp Luật VIệt Nam

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Thành lập quỹ học bổng cho sinh viên CNTT

Lễ ký kết bản ghi nhớ thành lập quỹ học bổng và giải thưởng cho sinh viên ngành CNTT giữa Bộ GD&ĐT và công ty Huawei Việt Nam giai đoạn 2012-2014 đã diễn ra vào chiều 26/11.

Quỹ học bổng/giải thưởng cho sinh viên Việt Nam trong lĩnh vực CNTT sẽ được triển khai trong 3 năm liên tiếp, từ 2012 đến hết 2014. Trước mắt, quỹ sẽ dành học bổng/giải thưởng trị giá 50.000 USD cho đối tượng là cá nhân hoặc nhóm sinh viên có những giải pháp hoặc ý tưởng sáng tạo về CNTT.

Đại diện của Bộ GD&ĐT cùng công ty Huawei Việt Nam kí vào bản Ghi nhớ về việc thành lập quỹ học bổng/giải thưởng cho sinh viên CNTT Việt Nam.

Theo bản ghi nhớ này, một số sinh viên ưu tú trong nhóm những người nhận học bổng, giải thưởng sẽ có cơ hội tham gia các chương trình đào tạo nâng cao tại Trung Quốc và được ưu tiên xem xét tạo cơ hội làm việc tại công ty Huawei.

Buổi lễ ký kết bản ghi nhớ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và công ty TNHH công nghệ Huawei Việt Nam về việc thành lập quỹ học bổng/giải thưởng cho sinh viên Việt Nam trong lĩnh vực CNTT diễn ra chiều qua (26/12). Chứng kiến lễ ký kết có ông Phạm Mạnh Hùng, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT và ông Khổng Huyền Hựu, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHND Trung Hoa tại Việt Nam.

Phía Huawei cho biết, đây là bước khởi đầu quan trọng của Huawei trong việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ ICT thâm nhập và mở rộng lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam. Trong khi đó, Thứ trưởng Phạm Mạnh Hùng đánh giá cao nỗ lực của Huawei trong việc phối hợp với Bộ GD&ĐT và cảm ơn sự đồng hành của Huawei trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về CNTT cho đất nước.

Thành Duy

Theo Infonet

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Phần mềm gọi điện miễn phí qua mạng Internet... còn đất sống ?

Trước nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh đối với thị trường viễn thông từ các phần mềm nhắn tin, gọi điện miễn phí qua mạng Wi-Fi, 3G như Viber, Whatspp... ông Phạm Hồng Hải, Cục trưởng Cục Viễn thông (Bộ TT&TT) cho biết, sắp tới, Cục sẽ tổ chức hội thảo để đưa ra chính sách quản lý phù hợp.


Trước các nguy cơ về an nình và cạnh tranh không lành mạnh của phần mềm gọi điện miễn phí qua mạng Internet, Bộ TT&TT sẽ đề ra chính sách quản lý phù hợp.

Phát biểu tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ năm 2013 của Bộ TT&TT ngày 24/12, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel cho biết, dịch vụ Over the top content (OTT) giúp nhắn tin, gọi điện miễn phí qua mạng Wi-Fi, 3G như Viber, Whatsapp... đang là một nguy cơ với các doanh nghiệp viễn thông nói riêng và các ngành CNTT, truyền thông, truyền hình nói riêng.

Bởi vì, những dịch vụ viễn thông cơ bản như điện thoại, nhắn tin và truyền hình đang chiếm đến 80% doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông (khoảng trên 100.000 tỷ đồng). Tuy nhiên, các dịch vụ này lại đang được cung cấp miễn phí trên mạng bởi các công ty nước ngoài, để từ đó kinh doanh những dịch vụ khác ngoài viễn thông. "Các cuộc gọi , nhắn tin miễn phí qua mạng Wi-Fi, 3G đó sẽ rất khó quản lý về mặt an ninh. Vì thế, Bộ TT&TT nên có chính sách quản lý dịch vụ OTT trên cơ sở không kìm hãm sự phát triển nhưng đảm bảo phát triển bền vững của ngành viễn thông, CNTT và truyền hình", ông Hùng nhấn mạnh.

Về vấn đề này, ông Hải cho rằng, nguy cơ các dịch vụ OTT của doanh nghiệp nội dung nước ngoài như Google, Yahoo... chiếm hết doanh thu từ những dịch vụ viễn thông cơ bản (nhắn tin, gọi điện) và khiến doanh nghiệp viễn thông giống như những "người làm thuê", không có lãi đang xảy ra không chỉ ở Việt Nam mà còn với tất cả các nước trên thế giới. Từ đó, đòi hỏi các nước phải có chính sách quản lý phù hợp.

Chẳng hạn, một số nước như Ả rập có chính sách rất cực đoan là cấm hoàn toàn việc sử dụng phần mềm Viber... nhưng Mỹ và một số nước Châu Âu lại ủng hộ việc người dùng sử dụng những phần mềm này. "Thời gian tới, Cục Viễn thông sẽ cùng một số chuyên gia tổ chức hội thảo về vấn đề này để tìm ra chính sách quản lý phù hợp", ông Hải kết luận.

Gần đây, người dùng tại Việt Nam ngày càng sử dụng nhiều hơn những phần mềm gọi điện Internet miễn phí thông qua mạng Wi-Fi hay 3G giữa các smartphone, trong đó tiêu biểu là các phần mềm Whatsapp, Viber, Line... hay các phần mềm "made in Việt Nam" như Zalo (VNG), FPT Chat (FPT)... Người dùng chỉ cần vào Appstore hay Google Play để tải phần mềm về, đăng nhập số điện thoại, máy sẽ tự động gửi mã xác thực và tìm kiếm trong danh bạ những bạn bè đã dùng ứng dụng. Từ đó, người dùng có thể dễ dàng gọi điện, nhắn tin miễn phí với nhau thông qua kết nối Internet.

Nhiều hãng smartphone cũng trang bị các phần mềm nhắn tin miễn phí nhằm tăng thêm tiện ích cho người sử dụng như Blackberry với công cụ Blackberry Messenger, Apple với ứng dụng Facetime đàm thoại video và iMssenger hỗ trợ nhắn tin đa phương tiện giữa các thiết bị chạy iOS với nhau (iPhone, iPad thậm chí cả MacBook) hay gần đây nhất là Samsung với phần mềm ChatOn.

Theo ictnews.vn

Đầu tư các dự án ứng dụng CNTT theo hình thức đối tác công – tư (PPP): Suy nghĩ từ một số dự án cụ thể

Thực hiện Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015, các dự án “Hệ thống thông tin quản lý văn bản tích hợp trong toàn quốc cho các cơ quan Chính phủ” (gọi tắt là hệ thống e-Doc) và “Hệ thống thư điện tử quốc gia” (gọi tắt là hệ thống e-Mail) đã được các đơn vị chủ trì tiến hành triển khai. Hình thức đầu tư dự án theo mô hình PPP đã được tính toán và cân nhắc áp dụng, tuy nhiên sự phù hợp và mức độ khả thi đến đâu cần phải được đánh giá một cách cẩn thận,  bài viết này sẽ đi sâu trình bày một số đánh giá như vậy.


Đánh giá sự phù hợp về phạm vi áp dụng hình thức đầu tư đối tác công - tư

Theo quy định tại Điều 1 – Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) ban hành kèm theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ (Sau đây goi tắt là Quy chế thí điểm), để một dự án có thể được triển khai áp dụng hình thức đầu tư PPP thì dự án đó phải là dự án phát triển kết cấu hạ tầng và có mục đích cung cấp dịch vụ công.

Tuy nhiên, định nghĩa về dịch vụ công tại Quy chế là chưa rõ ràng. Dẫn đến, các ứng dụng công nghệ thông tin trong nội bộ các cơ quan nhà nước nói chung và hệ thống e-Doc và e-Mail nói riêng không phù hợp với mục đích phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công mà chỉ gián tiếp hỗ trợ việc cung cấp dịch vụ công bởi lẽ các dự án này hướng đến xây dựng, phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin như là công cụ để cung cấp dịch vụ công được nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Đánh giá sự phù hợp với các nguyên tắc áp dụng hình thức đầu tư PPP


Nguyên tắc về thu hút nguồn vốn của khu vực tư nhân

Các dự án e-Doc và e-Mail đều đáp ứng được nguyên tắc này bởi lẽ Chính phủ đã xác định rõ định hướng thu hút nguồn vốn của khu vực tư nhân cho các dự án về công nghệ thông tin như đã nêu ở Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 (Việc huy động nguồn vốn doanh nghiệp đáp ứng giải pháp khuyến khích việc huy động các nguồn kinh phí ngoài ngân sách Trung ương (Điểm VI, Mục C, Điều 1, Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015). Bên cạnh đó, việc thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Chính phủ yêu cầu cắt giảm đầu tư công theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh xã hộivà Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ.

Nguyên tắc về vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án

Nguyên tắc này yêu cầu vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án gồm vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, các nguồn vốn thương mại trong nước và quốc tế và các nguồn vốn khác được huy động theo nguyên tắc không dẫn đến nợ công. Đối với các dự áne-Doc và e-Mail, đây là nguyên tắc hoàn toàn có thể được đáp ứng bởi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tại Việt Nam.

Nguyên tắc về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư

Nguyên tắc này sẽ được đáp ứng nếu nhà đầu tư bảo đảm rằng vốn chủ sở hữu của Nhà đầu tư trong Dự án phải đảm bảo tối thiểu bằng 30% phần vốn của khu vực tư nhân tham gia Dự án. Nguyên tắc này là hoàn toàn khả thi đối với lĩnh vực Công nghệ thông tin.

Thực tế, một điểm cần đặc biệt chú ý trong lĩnh vực công nghệ thông tin, hầu hết các doanh nghiệp có nhiều nguồn lực và kinh nghiệm đều là các doanh nghiệp nhà nước (được hiểu là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Một số doanh nghiệp đã có sẵn hệ thống cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin rộng khắp.Trường hợp các doanh nghiệp này được tham giatriển dự án về công nghệ thông tin, cho phí đểxây dựng và phát triển hệ thống,giá thành dịch vụcó thể được giảm đi đáng kể nhờ việc sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có.

Theo quy định tại Điều 9.2 của Quy chế thí điểm, phần tham gia của Nhà nước vào Dự án PPP không vượt quá 30% tổng vốnđầu tư của Dự án. Tuy nhiên,Quy chế thí điểm không đưa ra khái niệm vốn của khu vực tư nhân tham gia vào dự án. Như vậy, có thể suy luận rằng các doanh nghiệp nhà nước cũng có thể sử dụng các nguồn vốn của mình để đầu tư thực hiện Dự án PPP nếu các nguồn vốn đó không phải là vốn đầu tư phát triển và không dẫn đến nợ công. Do đó, đây là một điểm chưa rõ rà ở Quy chế thí điểm.

Nguyên tắc về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện Dự án trên cơ sở cạnh tranh, công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế, phù hợp với pháp luật Việt Nam, theo tập quán và thông lệ quốc tế

Nguyên tắc này hoàn toàn được đáp ứng nếu việc lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện theo đúng Quy chế thí điểm và các quy định của pháp luật về đầu tư và đấu thầu có liên quan.

Đánh giá về sự phù hợp với các lĩnh vực thí điểm đầu tư theo hình thức PPP

Các dự án về công nghệ thông tin nói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riêng không nằm trong các lĩnh vực thí điểm đầu tư theo hình thức PPP theo quy định tại Điều 4, Quy chế thí điểm.

Tuy nhiên, khoản 9, Điều 4, Quy chế thí điểm quy định các lĩnh vực thí điểm đầu tư theo hình thức PPP cũng bao gồm các dự án thuộc lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Do đó, để có thể triển khai dự án e-Doc và e-Mail  hình thức PPP theo Quy chế thí điểm, Bộ Thông tin và Truyền thôngcần thiết phải trình Thủ tướng Chính phủ xin phép được triển khai theo Quy chế thí điểm.

Đánh giá về sự phù hợp với các tiêu chí lựa chọn dự án


Tiêu chí về dự án quan trọng, quy mô lớn

Các dự án e-Doc và e-Mailkhông thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định số 412/QĐ-TTg ngày 11/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ dự án quan trọng, quy mô lớn, có yêu cầu cấp thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, trong khi Danh mục này là cơ sở để xác định dự án quan trọng, quy mô lớn theo quy định tại Điều Quy chế thí điểm.

Tiêu chí về khả năng hoàn trả vốn cho nhà đầu tư

Khả năng hoàn trả vốn của các dự áne-Doc và e-Mail phụ thuộc vào quy mô đầu tư và tính chất của loại dịch vụ liên quan cung cấp đến đối tượng là cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức. Việc xác định khả năng hoàn trả vốn sẽ được thực hiện đối với từng dự án cụ thể.

Tiêu chí về khả năng khai thác lợi thế công nghệ, kinh nghiệm quản lý, vận hành

Với những doanh nghiệp đã và đang phát triển mạnh mẽ như VNPT, FPT, Vietel, CMC… các dự án công nghệ thông tin nói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riênghoàn toàn có thể khai thác được lợi thế về công nghệ, kinh nghiệm quản lý và vận hành của nhiều doanh nghiệp trên. Dễ nhận thấy, doanh nghiệp trên hiện cung cấp hầu hết các dịch vụ công nghệ thông tin không chỉ cho xã hội mà còn cho cả nhiều cơ quan nhà nước.Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này còn có mối quan hệ cộng tác với các doanh nghiệp công nghệ thông tin quốc tế, dẫn đếncác doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam đã dần làm chủ công nghệ vàcó những bước phát triển nổi bật, trong những năm qua.Như vậy, có thể kết luận rằng các dự án công nghệ thông tin nói chungvà dự án e-Doc và e-Mail nói riêng đáp ứng được ít nhất một trong các tiêu chí lựa chọn dự án và thoả mãn điều kiện quy định tại Điều 5, Quy chế thí điểm.

Đánh giá sự phù hợp về thủ tục đầu tư


Thực tiễn triển khai các dự án đầu tư theo hình thức PPP theo Quy chế thí điểm cho thấy chưa có dự án nào hoàn thành các thủ tục đầu tư và đi vào triển khai. Cụ thể, chỉ có dự án đường cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết mới bước vào triển khai nội dung thực hiệnbáo cáo khả thi, một số dự án còn lại mới dừng lại ở bước nghiên cứu tiền khả thi. Các thủ tục đầu tư theoQuy chế thí điểm còn nhiều bước không thực sự cần thiết và có thể làm ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ triển khai các dự án, đặc biệt là các dự án đòi hỏi tiến độ triển khai nhanh như các dự án về công nghệ thông tin, cụ thể:

- Thủ tục đầu tư theo Quy chế thí điểm đòi hỏi các vấn đề liên quan đến cùng một dự án đầu tư phải trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ít nhất 02 (hai) lần: Phê duyệt Đề xuất dự án; phê duyệt phần tham gia của Nhà nước và cơ chế ưu đãi đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy, mỗi lần thực hiện thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt có thể kéo dài nhiều tháng;

- Thủ tục đầu tư theo Quy chế thí điểm yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải cho ý kiến ở ít nhất 04 bước: (i) thẩm định Đề xuất Dự án; (ii) thẩm định Phần tham gia của Nhà nước; (iii) cho ý kiến về kết quả lựa chọn Nhà đầu tư; và (iv) thẩm tra Dự án. Việc tham gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào quá nhiều bước khiến thủ tục đầu tư trở nên phức tạp;

- Việc lấy ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với kết quả lựa chọn nhà đầu tư chưa phù hợp. Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư cần chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả lựa chọn này.

- Thủ tục đấu thầu bắt buộc để lựa chọn nhà đầu tư theo Quy chế thí điểm không phải luôn luôn phù hợp. Trong một số trường hợp chỉ có một doanh nghiệp được xác định là đủ điều kiện trở thành nhà đầu tư, cần cho phép thực hiện thủ tục chỉ định nhà đầu tư để tránh các lãng phí về thời gian và kinh phí không cần thiết.

Với các phân tích bên trên có thể nhận thấy:V iệc triển khai các dự án về ứng dụng công nghệ thông tintrong nội bộ cơ quan nhà nước nói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riêng theo hình thức PPP theo quy định tại Quy chế thí điểm là chưa khả thi tại thời điểm hiện tại.

Mặc dù, Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo cụ thể về áp dụng hình thức đầu tư hợp tác Nhà nước – Doanh nghiệp cho dự án xây dựng hệ thống e-Doc và e-Mail, tuy nhiên, môi trường pháp lý về hình thức hợp tác Nhà nước – Doanh nghiệp tại Việt Nam là chưa sẵn sàng, do đó, Bộ Thông tin và Truyền thôngcần thiết phải xin cơ chế đặc thù riêng cho lĩnh vực CNTTnói chung và dự án e-Doc và e-Mail nói riêng để đảm bảo triển khai thành công 02 dự án này theo kế hoạch đặt ra trong Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010.

(Theo Telecom&IT 12/2012)

Triển khai các dự án CNTT theo mô hình PPP: Cơ hội và thách thức

Từ trước tới nay, ở nước ta, hợp tác giữa nhà nước và doanh nghiệp phổ biến theo mô hình BOT, BT …  trong đó thông thường các DNNN được chỉ định trên cơ sở đàm phán mà không phải thông qua đấu thầu cạnh tranh.  Trong nhiều trường hợp   các DN này còn chưa hoàn thiện nghiên cứu khả thi, vẫn trong giai đoạn huy động các nguồn lực cần thiết cho dự án, thậm chí còn dựa vào bão lãnh của Chính phủ để huy động vốn. Xu thế hiện nay, những mô hình đầu tư này không còn được ưa chuộng, thậm chí bị coi là mô hình cũ, vì bộc lộ nhiều bất cập cần mô hình tốt hơn thay thế.


Hình thức hợp tác công tư (PPP) đang là một lựa chọn tiềm năng cho các dự án phát triển kết cấu hạ tầng và cung cấp dịch vụ công. Hình thức PPP là việc nhà nước và tư nhân cùng thực hiện dự án trên cơ sở hợp đồng, theo đó tư nhân được phép khai thác công trình, cung cấp dịch vụ công, kinh doanh thu hồi vốn. Hợp đồng này là linh hồn của dự án, thường kéo dài từ 25 năm hoặc  hơn và thường có giá trị hợp đồng lớn. Khác với các dự án đầu tư theo hình thức BOT, BT… , ở mô hình PPP nhà nước sẽ đặt đầu bài kèm theo các thông số chi tiết của dự án, chuẩn bị môi trường đầu tư và tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thích hợp.

Mô hình PPP được cho là sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư công, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN nội địa và xa hơn là góp phần phát triển KT-XH nói nhờ tăng cơ hội tiếp cận với dịch vụ xã hội cơ bản. CNTT-TT đang được coi là hạ tầng của hạ tầng, thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội, do đó các dự án CNTT chắc chắn sẽ không thể nằm ngoài xu thế này, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, đâu là cơ hội và đâu là thách thức khi triển khai các dự án CNTT theo mô hình mới mẻ này ở Việt Nam.

Cơ hội của mô hình hợp tác công – tư áp dụng cho các dự án CNTT


Cơ hội đầu tư các dự án CNTT theo mô hình hợp tác công –tư xuất phát chính từ lợi ích của phương thức đầu tư này đối với cả khu vực nhà nước và tư nhân. Nói chung, lợi ích khi triển khai các dự án CNTT theo mô hình PPP không nằm ngoài các lợi ích chung như đối với các dự án trong các lĩnh vực khác.

Đối với khu vực nhà nước, mô hình đầu tư PPP là một giải pháp cho khoản vốn còn thiếu hụt giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn sẵn có, huy động các nguồn vốn trên thị trường, giảm nợ công, buộc khu vực công ngay từ đầu phải chú trọng đến hiệu quả đầu ra và lợi ích đạt được. Mô hình PPP tận dụng được những kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của khu vực tư nhân, chia sẻ rủi ro giữa những đối tác.

Đối với khu vực tư nhân, dựa vào quy trình lựa chọn nghiêm ngặt trên cơ sở các tiêu chuẩn cơ bản và nghiên cứu khả thi, PPP có khả năng giảm thiểu rủi ro đối với các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt trong giai đoạn đầu của dự án. Điều này sẽ sàng lọc được các dự án để lựa chọn được các dự án có chất lượng cao. Hơn nữa, dự án PPP còn tận dụng được sự hỗ trợ của Chính phủ trong các thủ tục đấu thầu, chuẩn bị chi tiết dự án, định hình khả năng vay vốn. Theo quy chế thí điểm hiện hành thì nhà nước còn có chính sách ưu đãi, thuế, điều kiện đầu tư, thậm chí kể cả lập báo cáo nghiên cứu khả thi, hợp đồng dự án. Kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước cho thấy khuôn khổ PPP có khả năng trở thành một gạch nối liên kết những thiếu hụt giữa nhu cầu cần thiết của Việt Nam về đầu tư cơ sở hạ tầng và hoạt động cấp vốn, sự đổi mới và tính hiệu quả mà các nhà đầu tư tư nhân có thể mang lại.

Cơ hội phát triển đầu tư theo mô hình PPP nói chung còn thể hiện ở sự quyết tâm của Chính phủ thông qua Quyết định 71/2010/QĐ-TTg ngày 9/11/2010 ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP và việc thành lập Ban chỉ đạo cấp Chính phủ về PPP do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đứng đầu, thành viên là lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan. Trong lĩnh vực CNTT, nhà nước khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển và ứng dụng CNTT trong đời sống xã hội, cơ quan nhà nước, điều này đã được đề cập trong Đề án sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT ban hành kèm theo Quyết định 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ.

Hơn nữa, triển khai Quyết định 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015, tại các cơ quan nhà nước, ứng dụng CNTT hiện đang được đẩy mạnh nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất làm việc của cán bộ, công chức. Từ góc độ của các đơn vị chuyên trách về CNTT trong khối các cơ quan nhà nước, trách nhiệm vì thế trở nên ngày càng nặng, khối  lượng công việc tăng cao. Tuy nhiên, vấn đề về chỉ tiêu biên chế, kinh phí dành cho CNTT cũng như tiền lương của khu vực này hiện tại không theo kịp với yêu cầu thực tế dẫn đến hiệu quả công việc không cao, chất lượng hạn chế. Ngoài ra, trong bối cảnh nhà nước chủ trương đẩy mạnh thắt chặt chi tiêu công, tinh giảm biên chế  và thu gọn bộ máy thì áp lực tìm mô hình mới đáp ứng đòi hỏi đặt ra là rất lớn và cấp thiết. Một giải pháp hiện đang rất được quan tâm chính là cơ chế thuê ngoài, trong đó cơ quan nhà nước sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp do các tổ chức, doanh nghiệp bên ngoài cung cấp nhằm tăng cường hiệu quả ứng dụng CNTT, tránh lãng phí khi phải đầu tư vào những hệ thống tốn kém mà hiệu quả sử dụng không được cao. Đây chính là cơ hội để thúc đẩy đầu tư và cung cấp dịch vụ CNTT theo hình thức đối tác công – tư nhằm thu hút, tận dụng được các nguồn lực của xã hội trong nước cùng tham gia xây dựng, phát triển, vận hành, duy trì các hệ thống CNTT trong các cơ quan nhà nước.

Thách thức khi triển khai dự án CNTT theo hình thức PPP


Bên cạnh các cơ hội có được không thể không tính đến những khó khăn, thách thức, những yếu tố đã, đang và sẽ cản trở tiến trình triển khai dự án CNTT theo mô hình PPP.  Nói  chung về nguyên tắc  triển khai, dưới góc độ chính trị, PPP dường như khó được chấp nhận vì nó phần nào làm mất quyền quản lý và kiểm soát của nhà nước. Về năng lực, một câu hỏi đặt ra là với điều kiện của Việt Nam hiện nay, liệu khu vực tư nhân có đủ năng lực chuyên môn và tài chính đảm bảo thực hiện PPP hay không. Ngay từ khẩu mời thầu, có được một đội ngũ chuyên gia giỏi biên soạn ra bộ hồ sơ mời thầu chuyên nghiệp, hấp dẫn nhà đầu tư cũng là một thách thức. Thêm vào đó, một cản trở lớn là hiện nay ta chưa có một khung pháp lý đủ rộng để mô hình có thể thực sự khuyến khích được khu vực tư nhân yên tâm tham gia. Về thủ tục hành chính, cho dù khai thông được khâu cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án thí điểm thì cũng chỉ mới giải quyết được một trong rất nhiều khâu trong chuỗi các thủ tục đầu tư đầy chông gai. 

Quy chế thí điểm đã mở đường cho các đề xuất tự nguyện, cho phép sáng tạo và cởi mở hơn với khu vực tư nhân. Tuy nhiên, lo lắng của nhà đầu tư về một quy trình cạnh tranh không “thực sự” minh bạch vẫn còn tồn tại, khi mà khả năng thắng thầu thấp thì họ không bao giờ bỏ tiền đầu tư. Cuối cùng là chưa có hướng dẫn cụ thể việc bố trí và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước cho công tác chuẩn bị dự án PPP.


Khác với các dự án xây dựng công trình, dự án CNTT có rất nhiều đặc thù. Phần cứng thay đổi nhanh chóng,  giá thiết bị giảm mạnh theo thời gian. Phần mềm gồm nhiều loại có bản quyền và PMMNM được mua sắm theo đơn đặt hàng hoặc đóng gói, có thể nâng cấp phát triển và chỉnh sửa. Sản phẩm của dự án là các phần mềm (tài sản vô hình) không hiện hữu như các công trình xây dựng (tài sản hữu hình) nên không thể áp dụng các quy định chung cho cả 2 loại tài sản này. Hơn nữa, khi triển khai dự án CNTT có tính rủi ro cao, khả năng thành công ngay lần đầu thấp,  khối lượng hiệu chỉnh qua mỗi chu kỳ phát triển lớn. Chi phí triển khai cũng chứa đựng nhiều đặc thù bao gồm nhân công, đào tạo chuyển giao công nghệ, tạo lập, duy trì cơ sở dữ liệu, nhập số liệu. Lấy ví dụ riêng ở khía cạnh công nghệ, vòng đời sản phẩm CNTT ngắn, các dòng sản phẩm liên tục đổi mới và cập nhật, do đó quy trình thủ tục đầu tư theo PPP kéo dài như hiện nay có thể dẫn đến việc trang thiết bị khi triển khai có thể bị lạc hậu so với khi lập báo cáo khả thi.

Với các dự án CNTT, phần lớn doanh nghiệp mạnh đủ năng lực tham gia các dự án PPP là doanh nghiệp nhà nước, hoặc có vốn của nhà nước. Tuy nhiên, theo quy định hiện tại của Quyết định 71/2010/QĐ-TTg, những doanh nghiệp loại này sẽ bị hạn chế tham dự, điều này gây khó khăn triển khai mô hình PPP cho các dự án CNTT. Do đó, cần có quy định và hướng dẫn chi tiết để các doanh nghiệp nhà nước có thể tham gia các dự án CNTT theo mô hình PPP. Việc  này không những thúc đẩy thị trường nhà đầu tư trong nước mà còn mang lại cho các nhà thầu quốc tế các đối tác tiềm năng.

Việc giới hạn phần tham gia của nhà nước trong các dự án PPP theo Quyết định 71/2010/QĐ-TTg cũng là một yếu tố hạn chế sự hưởng ứng của phía tư nhân nói chung. Đặc biệt đối với các dự án CNTT, tổng vốn đầu tư nhỏ hơn nhiều lần so với các dự án giao thông và tư nhân hoàn toàn có thể đầu tư nhiều hơn 70%, thì giới hạn này cần phải rất linh hoạt để hấp dẫn khu vực tư nhân tham gia. 

Về xu thế thuê ngoài dịch vụ CNTT như trình bày ở trên, hiện nhà nước chưa có định mức chi cho tư nhân khi cung cấp dịch vụ này, chưa có quy định xác định năng lực của các đơn vị cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, trên hết vẫn là vấn đề đảm bảo tuyệt đối ATTT dữ liệu của cơ quan nhà nước đang là rào cản lớn khi triển khai thuê ngoài dịch vụ CNTT cho cơ quan nhà nước. Yêu cầu đặt ra là phải có khung pháp lý đầy đủ về an toàn an ninh thông tin, tuy nhiên tất cả vẫn còn đang trong quá trình dự thảo.

Qua phân tích trên, có thể thấy trọng tâm để thu hút khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực CNTT theo mô hình PPP nằm ở sự quyết tâm cao của các cấp lãnh đạo nhằm hoàn thiện khung pháp lý đủ rộng, cơ chế tài chính cũng như chuẩn bị đủ nguồn lực cho các dự án có thể triển khai thành công.

(Theo  Telecom&IT 12/2012)

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

Những thủ thuật tìm kiếm hữu ích trong Gmail !

Tìm kiếm là một tính năng không chỉ phổ biến trong máy tính, trên các dịch vụ hay các trang web mà còn được trang bị ngay trong hộp thư của bạn. Chính vì hộp thư có chứa quá nhiều thư nên bạn không thể rà soát theo cách thức thủ công được mà bắt buộc phải tìm kiếm để có được Email mình cần. Thông thường chúng ta chỉ tìm kiếm theo tên chứ không khai thác theo các khía cạnh khác. Cũng giống như việc tìm kiếm trong Windows 7, bạn có thể tìm Email theo thời gian, kích thước, địa chỉ…để thu hẹp không gian tìm kiếm nhằm mục tiêu thực hiện nhanh chóng hơn. Xin chia sẻ cùng các bạn những thủ thuật hữu ích nhất trong quá trình này
    
Theo kích thước

Tìm theo kích thước là một phương thức hoàn toàn mới trong Gmail cho phép người dùng lọc ra những Email có kích thước xác định nào đó. Theo mặc định, đơn vị được sử dụng chủ yếu ở đây dựa trên kích thước Byte, nhưng bằng cách thêm ký tự “M” ngay sau số nhập của bạn thì chúng ta có thể tìm kiếm cho các email với kích thước MB. Ví du: Nếu tôi muốn tìm những email bằng 3MB, tôi sẽ nhập là “size:3M”, tương tự với những email nhỏ hơn 3MB thì nhập “smaller:3M” và những email lớn hơn 3MB là “larger:3M”.
   

Theo thời gian

Với những bức thư tồn tại từ rất lâu thì cách tốt nhất để bạn lọc ra chính là sử dụng phương thức tìm kiếm theo thời gian. Gmail cho phép người dùng tìm email theo ngày nhận/ngày gửi chẳng hạn như sau đó, trước đó, cũ hơn, mới hơn. Ví dụ: Nếu bạn nhập “after: 2012/10/10”, nó sẽ hiển thị những email trong hộp thư sau ngày này. Bạn cũng có thể sử dụng 2 cách khai thác đồng thời để tìm email trong một khoảng thời gian nào đó, ví dụ như “after: 2012/04/10 before: 2012/10/10”. Trong trường hợp không muốn những rắc rối của việc tìm kiếm theo ngày tháng cụ thể thì bạn nên sử dụng cách khai thác theo khóa older_than hoặc newer_than, ví dụ: Với những email được gửi cách đây hơn 2 năm thì nhập là “older_than:2y”.

Theo các tham số email cụ thể

Thông thường chúng ta sẽ có 5 thông số cơ bản để nhập mỗi khi gửi một email đó là: to:/from:, cc:, bcc:, subject và body. Thật đơn giản, bạn chỉ cần một trong số các từ này để tìm kiếm theo địa chỉ gửi/nhận hoặc nội dung soạn thảo trong thư, đặc biệt là tìm ra những người người gửi email tới bạn với một chủ đề nào đó. Ví dụ: Để tìm kiếm những email từ địa chỉ của  cộng tác viên Thuy Van với subject “Gui bai cong tac”, tôi sẽ nhập là “from: Thuy Van subject: gui bai cong tac”. Ngoài ra, nếu bạn muốn tìm email có chứa các tệp tin đính kém thì sử dụng khóa khai thác là: has: attachment.
 
     
Theo cụm từ chính xác

Bằng cách khai thác trong dấu ngoặc kép, bạn có thể tìm kiếm cho các cụm từ chính xác. Cũng giống như ví dụ ở trên, tôi muốn tìm cho cụm từ “gui bai cong tac” là chủ đề của một email nào đó, vì vậy tôi sẽ sử dụng: subject: “gui bai cong tac”.
    
 Nối 2 cụm từ tìm kiếm

 Bằng cách sử dụng từ khóa “OR”, bạn có thể kết hợp khóa khai thác tìm kiếm khác nhau. Điều này rất hữu ích cho bạn khi muốn lọc email từ nhiều nguồn, ví dụ: nếu bạn cần tìm các email được gởi bởi 2 hay nhiều người thì nhập lệnh “from:name1 OR from:name2”.
  
Theo tên và phần mở rộng của tệp tin đính kèm

Với phương thức tìm kiếm này, kết quả trả về sẽ dựa vào tên hoặc phần mở rộng của các tệp tin đính kèm trong đó. Chẳng hạn như với cụm từ “Filename:JPG” sẽ trả về kết quả cho các tệp tin theo định dạng . PNG phổ biến và có tên là Filename hoặc “letter.docx” sẽ trả về kết quả cho các tệp tin theo định dạng .docx và có tên là letter. Chúng ta có thể sử dụng nhiều định dạng khác như PDF, PPT, MP3…
 

Theo tên một thư mục cụ thể

Giả sử một người đồng nghiệp vừa thông báo đã gửi email cho bạn hoặc vừa trả lời thư bạn, nhưng khi mở hộp thư ra thì không thể tìm thấy email đó. Bạn phải làm sao? Thông thường thì chúng ta sẽ rà soát trong thư mục Spam (thư rác), tất nhiên là đôi khi Google có thể nhầm lẫn khi đánh dấu các thư rác. Vậy để tìm các thư bên trong thư mục chứa thư rác thì nhập in:spam, tương tự với các thư đã xóa gần đây thì nhập in:trash. Bạn có thể thực hiện tương tự đối các thư mục khác.


Theo những email đọc và chưa đọc

Trong hộp thư của bạn có thể có những bức thư đã đọc và cả những thư chưa đọc, trong đó thư chưa đọc nằm rải rác ở từng trang chứ không phải là trang hiện tại. Vậy tất cả những gì chúng ta cần làm khi thực hiện tìm kiếm email theo cách thức này là thêm từ read hoặc unread vào sau dấu “:” của từ is tức là “is:unread” hoặc “is:read”.

THU HƯỜNG

6 tiện ích Firefox cho người mê Facebook

Facebook đã rất tuyệt vời, nhưng bạn có thể khiến nó tuyệt vời hơn, thân thiện hơn bằng những tiện ích trên trình duyệt Firefox.

Tự động đăng xuất Facebook


Nếu bạn lo ngại về sự riêng tư của tài khoản Facebook khi chia sẻ máy tính với các thành viên khác trong gia đình, hãy thử tiện ích Facebook Auto-Logout. Bạn có thể thiết lập một khoảng thời gian nào đó thì tài khoản sẽ tự động đăng xuất. Khi đó toàn bộ cookie tạo ra khi bạn vào Facebook cũng sẽ được dọn dẹp sạch sẽ.



Gỡ bỏ giao diện Timeline

Timeline (Dòng thời gian) là giao diện được Facebook triển khai để thay thế giao diện cổ điển, tuy nhiên nhiều người không thích điều này. Timeline Remove sẽ giúp bạn lấy lại giao diện ban đầu của Facebook một cách dễ dàng.



Chặn Facebook trên các trang web khác

Cảm thấy phiền phức khi thấy những nút Like, những bài viết khuyến cáo, quảng cáo xuất phát từ Facebook được tích hợp trên rất nhiều trang web? Giải pháp đơn giản nhất là sử dụng tiện ích Facebook Blocker.



Ẩn mình khi chat trên Facebook

Khi bạn trò chuyện với người khác qua chat hoặc hội thoại nhóm, người khác có thể biết bạn đã đọc tin nhắn vào lúc nào. Nếu vì lý do nào đó bạn không muốn hiển thị điều này thì Chat Undetected là tiện ích bạn cần. 




Tối ưu Facebook với Social Fixer

Đây là một tiện ích cực mạnh và hữu ích, với Social Fixer bạn có thể hoàn toàn kiểm soát được nội dung hiển thị trên trang chủ bằng bộ lọc mạnh mẽ, tự động phóng to ảnh khi rê chuột vào, tô sáng những bình luận mới,... Và đặc biệt là có thể thay đổi giao diện với nhiều mẫu tuyệt đẹp.



Thanh công cụ Facebook và Social API
Đây không phải là một tiện ích mở rộng, mà là một tính năng có sẵn trên các phiên bản Firefox mới nhất. Với tính năng này, bạn có thể tích hợp các nút công cụ của Facebook lên thanh công cụ của Firefox, đồng thời có thể chat Facebook ở bất cứ tab nào mà không cần vào trang chủ Facebook.


Dương Kim Ngọc

10 tính năng ẩn hữu ích trong Windows 8

Nếu bạn đã nâng cấp và đang trải nghiệm với Windows 8, bạn sẽ cần phải có một chút ít thời gian để khám phá hết tất cả các tính năng tìm ẩn trong Windows 8. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn nhanh chóng tìm thấy những tính năng ẩn hữu ích mà bạn chưa biết.

1. Menu Start bí mật

Thay vì, bạn di chuyển con trỏ chuột xuống phía dưới bên trái của màn hình và nhấp chuột trái vào đó để hiển thị màn hình Start, bạn có thể nhấp chuột phải, sau đó một menu hiển thị các tùy chọn quan trọng như: Control Panel, Command Prompt, Task Manager, ... sẽ hiện ra.



2. Đồng bộ hóa các thiết lập

Không chỉ với các hệ thống tài khoản ứng dụng đã có sẵn, mà Windows 8 còn  cung cấp cho người dùng các tài khoản liên kết như: SkyDrive, Xbox, Hotmail / Outlook và phần lớn các dịch vụ điện toán đám mây. Ngoài ra, bạn cũng có thể đồng bộ hóa máy tính của bạn với các máy tính khác, điều này rất tiện dụng cho công việc của bạn. Để thiết lập tính năng đồng bộ này, bạn mở charm Settings, sau đó chọn Change PC settings> Sync your settings.




3. Windows Defender

Khi trở lại, Windows Defender đã nhanh chóng tiếp quản Microsoft Security Essentials. Không giống như Security Essentials, Windows Defender đã kiểm soát cả virus và phần mềm gián điệp xâm nhập vào hệ thống. Nếu hệ thống của bạn không sử dụng bất kỳ một công cụ chống virus, phần mềm gián điệp, ...  nhanh chóng, Windows Defender nhảy vào để lấp lỗ hổng bảo mật cho hệ thống của bạn.



4. Tắt máy đơn giản

Đó là cách sử dụng phím tắt tương tự như trong các phiên bản trước của Windows, tuy nhiên, Windows 8 sẽ giúp bạn tắt máy tính rất đơn giản. Thay vì mở thanh Charms, nhấp vào Settings, chọn nút Power và chọn Shut down, bạn chỉ cần nhấn Alt  + F4 để hiển thị hộp thoại thông báo trên desktop. Sau đó, bạn có thể nhấn Enter để tắt máy hoặc chọn một lựa chọn khác từ trình đơn thả xuống.



5. Chụp ảnh màn hình

Tương tự như Windows 7, Windows 8 vẫn có thể sử dụng Snipping Tool để chụp ảnh màn hình. Tuy nhiên, có một cách dễ dàng hơn để chụp ảnh màn hình của bạn bằng cách nhấn tổ hợp phím Windows + PrtScn và nó sẽ tự động lưu vào thư viện ảnh của bạn.




6. Phím tắt

Với thanh Swiping, Windows 8 đã làm việc tốt hơn trên các giao diện cảm ứng. Nhưng nó lại gặp khó khăn khi làm việc trên máy tính xách tay và máy tính để bàn. Để giúp bạn có thể tiết kiệm thời gian nhấp và kéo chuột, thay vào đó bạn có thể sử dụng phím tắt, làm cho bạn dễ dàng điều hướng các ứng dụng. Bạn có thể nhấn Windows + C để mở thanh Charms, để xem tất cả các ứng dụng bạn nhấn Ctrl + Tab trên màn hình Start, ...




7. Hiển thị chế độ mini của cửa sổ

Như bạn đã biết, Windows 7 cho phép bạn hiển thị cửa sổ ở hai bên của màn hình bằng cách nhấp và kéo thanh tiêu đề. Windows 8 đi một bước xa hơn, nó cho phép bạn hiển thị cửa sổ ứng dụng (chẳng hạn như thời tiết hoặc Bing) sang một bên trên màn hình desktop. Bạn có thể làm điều này bằng cách mở toàn màn hình của cửa sổ ứng dụng hiện tại, sau đó từ góc trên màn hình, bạn kéo sang trái hoặc sang phải. Từ đây, bạn có thể làm việc với các ứng dụng cùng một lúc.




8. Lịch sử tập tin

Với tính năng này, Windows 8 có thể theo dõi từng phiên bản trước đó của các tập tin quan trọng trong hệ thống của bạn, nó có thể là vị cứu tinh nếu bạn vô tình xóa nhầm một tài liệu hoặc một bức ảnh yêu thích của bạn. Trong Windows 8 thì tính năng này không được kích hoạt mặc định, vì vậy bạn sẽ phải kích hoạt nó từ phần System and Security trong Control Panel. Tuy nhiên, bạn sẽ cần phải gắn thêm một ổ đĩa cứng thứ hai, có thể gắn trong hay ngoài hoặc nối mạng đều được.




9. Hỗ trợ file ISO

Trong khi Windows 7 hỗ trợ file ISO burner, thì Windows 8 lại không hỗ trợ file burner mà hỗ trợ file ISO (VHD) nguyên bản. Bạn có thể nhấp đúp vào file ISO để xem nội dụng của nó hay có thể nhấp chuột phải và chọn Mount để chạy nó.




10. Cài đặt lại Windows 

Đây là một tính năng bạn có thể bỏ qua cho đến khi hệ thống của bạn gặp sự cố cần cài đặt lại Windows. Bạn có thể chọn Reset từ PC Settings để thiết lập tính năng này. Bây giờ, bạn không cần đĩa cài đặt hoặc mã số serial, bởi vì tất cả mọi thứ bạn cần đã có sẵn và được ẩn trong ổ đĩa cứng. Bạn dễ dàng để thiết lập lại hệ thống chỉ trong vài cú nhấp chuột.



Ngoài ra, bạn có thể làm mới hệ thống (Refresh) để quay trở lại thiết lập mặc định của hệ thống, bảo vệ các tập tin cá nhân, cài đặt các chương trình đi kèm với máy tính và bất kỳ ứng dụng mà bạn đã tải về từ Windows Store.

Đỗ Thanh Trọng
Girls Generation - Korean