Thứ Hai, 30 tháng 5, 2011

10 lời đồn về điện thoại di động



Sử dụng điện thoại di động khiến bạn ngu đi hoặc bị... sét đánh? 1 cú điện có thể kích nổ cả cây xăng hay làm rơi máy bay? Điện thoại di động có thể gây... ung thư, vô sinh và nhiều bệnh đáng sợ khác? Sử dụng điện thoại di động hãy coi chừng người khác theo dõi được mình? Bạn có thể tìm được câu trả lời cho những câu hỏi trên trong bài viết này.

1. Gọi điện + đổ xăng = tiêu đời?

Có vẻ đây là một trong những lời đồn phổ biến nhất về sự nguy hiểm của điện thoại di động mà chúng ta vẫn gặp phải thường ngày. Thậm chí lời đồn đại này phổ biến đến mức ở Việt Nam, thỉnh thoảng vẫn gặp 1 số cây xăng treo biển: Không dùng điện thoại di động khi đổ xăng.
Sự thật là điện thoại di động bình thường sẽ không thể gây cháy nổ được, dù bạn đang ở trong 1 cây xăng. Xăng là 1 chất bay hơi rất mạnh khi tiếp xúc với điều kiện nhiệt độ và áp suất bình thường.
Nhưng kể cả trong điều kiện xung quanh nhiều hơi xăng, sóng điện từ phát ra từ điện thoại di động không đủ mạnh để kích nổ nó. Tuy nhiên 1 điếu thuốc hút dở thì lại dễ dàng gây cháy. Vì thế, xin hãy nhớ rằng: Không hút thuốc ở nơi đổ xăng.

2. Điện thoại di động + máy bay = máy bay rơi?

Tin đồn này xuất phát từ việc hành khách trên máy bay được yêu cầu tắt điện thoại trong chuyến bay. Người ta giải thích rằng điện thoại di động có thể gây nhiễu cho hệ thống la bàn cũng như định vị, khiến máy bay lạc hướng và bị rơi.
Thực ra có khi nào bạn cảm thấy nghi ngờ? Với 1 thiết bị hiện đại như máy bay, có khả năng chống được cả sét đánh mà lại dễ dàng bị rơi chỉ vì một cuộc điện thoại?
Sự thật là sóng điện từ phát ra trên điện thoại di động rất yếu và hầu như không thể nào khiến hệ thống điện tử trên máy bay hoạt động sai lệch. Nếu thực sự chỉ cần 1 cú điện thoại mà làm rơi được máy bay, thì có lẽ tương lai của chủ nghĩa khủng bố sẽ trở nên rất sáng sủa và điện thoại di động sẽ bị cấm tiệt trên máy bay. (hiện giờ hành khách vẫn được mang điện thoại lên máy bay, dù được yêu cầu tắt máy trong chuyến bay).
Có lẽ lí do chủ yếu khiến cho điện thoại di động và các thiết bị điện tử được yêu cầu tắt đi khi cất và hạ cánh đó là phi hành đoàn muốn hành khách tập trung vào những hướng dẫn an toàn được các tiếp viên truyền đạt trước lúc cất cánh. Cũng như việc 90% các vụ tai nạn máy bay xảy ra khi cất và hạ cánh, và chẳng ai muốn trong tình huống tai nạn hoặc va chạm lại có những chiếc điện thoại hay laptop bay... vèo vèo trong khoang hành khách.
Ở Việt Nam, gọi điện thoại trên máy bay có thể bị phạt đến 1 triệu đồng.
Dù rằng điện thoại không làm rơi máy bay, hãy ngoan ngoãn nghe theo sự hướng dẫn của phi hành đoàn nếu bạn không muốn gặp rắc rối với cơ quan an ninh sân bay.

3. Nghe điện thoại di động khi trời có sấm chớp sẽ khiến bạn dễ bị... sét đánh?

Lời đồn này xuất phát từ thực tế là bạn không nên nghe điện thoại để bàn khi có sấm chớp. Khi có sấm chớp thì các cột điện là nơi sẽ bị các tia sét "ghé thăm" đầu tiên vì chúng thường cao và có điện trường mạnh. Sét đánh vào cột điện có dây điện thoại sẽ truyền theo đường dây điện thoại và đến thẳng những ai... đang nghe điện thoại.
Thế nhưng khi điện thoại di động ra đời, dù rằng cơ chế hoạt động của 2 loại điện thoại này khác hẳn nhau, nhưng lời đồn đại trên vẫn rất phổ biến. Bạn có thể yên tâm rằng sử dụng điện thoại di động khi sấm chớp sẽ không làm bạn trở thành 1 chiếc "cột thu lôi biết đi".

4. Điện thoại di động phát nổ


Rất buồn rằng đây là một tin đồn hoàn toàn có thật. Và đã có một số trường hợp tử vong do điện thoại nổ. Năm 2007, ở Hàn Quốc có 1 thanh niên chết vì chiếc điện thoại để trong túi áo phát nổ khiến mảnh vụ găm vào tim, phổi của anh này. Gần đây hơn, năm 2010, 1 công nhân trong nhà máy luyện kim của Trung Quốc cũng chết vì pin điện thoại bị nổ.
Thậm chí không vụ việc này không chỉ xảy ra với các điện thoại rẻ tiền mà cả các smartphone đắt tiền cũng bị ảnh hưởng: mới năm ngoái, 1 thanh niên ở Mỹ đã cáo buộc Motorola rằng chiếc Droid 2 đã phát nổ ngay khi anh này đang nghe điện thoại và khiến anh ta bị thương ở tai.
Bộ phận thường hay phát nổ nhất là pin. Và lí do dẫn tới phát nổ nhiều nhất là nhiệt độ. Vì thế hãy tránh để điện thoại của bạn quá gần... bếp lò và các nguồn nhiệt khác. Đồng thời ở các nước nhiệt đới như Việt Nam, hãy hết sức tránh việc phơi điện thoại dưới ánh nắng quá lâu.
Ở các nước nhiệt đới nắng gắt như Việt Nam, để điện thoại trên mặt táp lô là điều không nên làm vì chúng sẽ dễ bị nóng lên rất nhanh.
Nhiệt độ của điện thoại có thể vượt quá 50-60*C nếu bị phơi dưới nắng và các hóa chất trong pin sẽ dễ bị mất ổn định ở nhiệt độ cao dẫn đến cháy nổ. Chẳng hạn như bạn hãy tránh để điện thoại trên mặt táp lô khi đi xe ô tô, ánh nắng mặt trời chiếu qua kính trước sẽ dễ dàng làm điện thoại của bạn nóng lên.

5. Sử dụng điện thoại di động khiến đầu óc... ngu đi

Có lẽ đây là 1 trong những tin đồn ngớ ngẩn nhất phổ biến tới tận bây giờ. Xuất phát từ quan niệm rằng sóng phát ra từ điện thoại di động có thể ảnh hưởng đến não người và làm chết các nơ-ron thần kinh gây suy giảm khả năng tư duy hay trí nhớ.
Mặc dù điện thoại di động không làm bạn "ngu" đi, nhưng say mê với chú dế yêu quá độ chắc chắn sẽ khiến điểm số của bạn tụt dốc. Đó chính là lí do vì sao điện thoại di động bị cấm trong các trường phổ thông. Hãy tìm cách phân phối thời gian học tập và giải trí hợp lí với chiếc điện thoại của mình để tránh những tác dụng tiêu cực của điện thoại di động.

6. Điện thoại di động gây ung thư

Trong thời kì đầu của ngành công nghiệp di động, người ta sợ rằng sử dụng điện thoại di động quá nhiều thì sóng điện từ của điện thoại di động sẽ ảnh hưởng đến cơ thể con người và gây ung thư hoặc các bệnh khác như tim mạch, đau đầu.
Một vài nghiên cứu y học trong thời kì này cũng bổ sung bằng chứng cho những lo ngại trên. Và thế là rất nhiều người nói lời tạm biệt với phát minh quan trọng nhất của thập kỉ 90.
Trong thời điểm hiện tại, dù vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng hầu hết các nhà khoa học đều đồng ý rằng việc sử dụng điện thoại di động ở mức trung bình (nghe gọi dưới 30 phút/ngày) sẽ không gây những ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người sử dụng.

7. Điện thoại di động gây vô sinh ở nam giới

Nếu thực sự điện thoại di động gây vô sinh có lẽ con người sẽ sớm... tuyệt chủng.
Cũng giống như thông tin về việc điện thoại di động gây ung thư, tin đồn về chuyện sóng di động có thể gây vô sinh đã dẫn đến sự ra đời của các loại bao đeo điện thoại gắn vào thắt lưng. Mục đích của loại bao đeo này là cố gắng đưa điện thoại di động ra càng xa "vùng nguy hiểm" càng tốt.
Có 2 câu trả lời cho tin đồn này:
  • Sóng điện từ của điện thoại không gây vô sinh với mức độ sử dụng trung bình
  • Nếu sóng điện thoại có gây vô sinh thật thì các bao đeo điện thoại vào thắt lưng cũng chẳng giúp tình hình sáng sủa được hơn là bao.

8. Sử dụng điện thoại di động khi đang sạc có thể khiến bạn bị điện giật

Điện thoại "Tàu" với chất lượng gia công kém và vỏ máy dùng nhiều kim loại ẩn chứa nguy cơ... điện giật. Có nhiều lời cảnh báo về vấn đề này được lan truyền trên mạng. Thực hư ra sao?
Câu trả lời là : Đúng, sử dụng điện thoại di động sẽ khiến bạn dễ bị điện giật, nhất là với các máy có chất lượng gia công kém. Nhưng sự việc này có đáng lo hay không thì câu trả lời lại là : Không.
Các điện thoại "Tàu" đều có chất lượng gia công rất tệ và có thể bị hở điện ở 1 vị trí nào đó trên vỏ, sự cố này không chỉ xảy ra với các điện thoại mà cả những thiết bị điện tử khác. Thậm chí là cả chiếc iPod Touch của người viết cũng cho cảm giác tê tê khi cầm vào lúc đang cắm sạc.
Thế nhưng vấn đề này lại chẳng đáng lo vì hầu hết các bộ sạc trên điện thoại di động đều hạ điện thế của dòng điện xuống khoảng trên dưới 5V trước khi truyền vào thiết bị để sạc cho pin. Với điện thế này, kể cả người sử dụng có bị giật đi chăng nữa thì cũng không thể gây hậu quả nghiêm trọng, hiệu điện thế đó còn thua xa 1 cú giật từ... vợt muỗi điện. Tuy nhiên nếu phần hở điện tiếp xúc với những vùng da nhạy cảm như má, tai thì cảm giác tê hoặc nhói, rát cũng có thể xuất hiện.
Vì thế dù việc bị giật khi dùng điện thoại đang cắm sạc không quá nguy hiểm, bạn vẫn nên chờ điện thoại sạc xong rồi hãy sử dụng.

9. Người ta có thể theo dõi bạn qua điện thoại di động.

Theo dõi vị trí người khác bằng điện thoại di động có thể được dùng với mục đích tốt: Giúp các bậc cha mẹ quản lí tốt hơn con cái của mình.
Nghe như chuyện khoa học viễn tưởng như sự thực lại không hề xa xôi đến thế.
Nếu bạn đọc nào còn nhớ, cách đây mấy năm, có 1 vụ lừa đảo chiếc Macbook Air trên diễn đàn công nghệ Handheld vn (mà bây giờ bạn vẫn có thể Google được). Chứng cớ duy nhất mà nạn nhân còn giữ lại được đó là số điện thoại của kẻ lừa đảo. Và 1 số thành viên có quan hệ với phía nhà cung cấp dịch vụ Viettel đã "tuồn" được thông tin về vị trí của kẻ lừa đảo qua số điện thoại đó (dù chỉ là SIM "rác"). Góp phần vào việc truy tìm và đem thủ phạm ra ánh sáng.
Vụ việc này cho thấy các cơ quan công lực hoàn toàn có khả năng và đủ công cụ để truy ra vị trí của 1 thuê bao di động nếu họ muốn và họ cần.
Vì thế xin hãy giữ việc làm của mình minh bạch, luôn có những con mắt sẵn sàng soi mói bạn. Mọi lúc, mọi nơi, ngay cả những khi bạn không ngờ tới nhất.

10. Sử dụng gói cước trả sau tiêu tốn nhiều hơn gói cước trả trước.

Đây có lẽ là 1 trong những tin đồn xấu nhất về dịch vụ điện thoại trả sau. Và thực ra tin đồn này cũng phần nào... có lí khi mà rất nhiều người sử dụng điện thoại di động khi chuyển từ gói cước trả trước sang gói cước trả sau than phiền rằng hóa đơn điện thoại của họ bị đội lên quá nhiều. Điều này đúng, nhất là với những ai chi tiêu dè xẻn trên chiếc điện thoại của mình.
Nếu bạn xác định rằng ngân sách dành cho điện thoại của bạn 1 tháng chỉ dưới mức 200.000 đồng có lẽ sử dụng dịch vụ trả trước là lựa chọn tối ưu. Thế nhưng nếu như ngân sách dành cho chú dế yêu của bạn từ 200.000 đồng/tháng trở lên và bạn thoại nhiều hơn nhắn tin có lẽ bạn nên xem xét chuyển sang thuê bao trả sau.

Thứ Năm, 26 tháng 5, 2011

Lựa chọn Windows 7 32 bit hay 64 bit?



Khác biệt cơ bản giữa Windows 32-bit và 64-bit
Chúng ta thường nghe đến cụm từ hệ điều hành Windows "32-bit" và “64-bit”. Đây không phải là một khái niệm mới mà đã được xuất hiện từ cách đây khá lâu. Vậy điểm khác biệt của chúng là gì? Bài viết sau đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về khái niệm này.

Khác biệt cơ bản giữa Windows 32-bit và 64-bit
Hãy tượng tưởng như bạn chạy xe trên đường, 32-bit là đường nhỏ, lúc nào cũng kẹt xe, xe lớn chạy không được, xe nhỏ chạy không xong. Còn 64-bit là đường cao tốc, xe thông thoáng, chạy với tốc độ cao. Như vậy, ta đã có một ít so sánh về 32-bit và 64-bit. Nhưng không phải lúc nào máy bạn cũng có thể chạy với tốc độ của 64-bit cả, mà đó là cả một “chặng đường” nâng cấp phần cứng phù hợp.
Nếu bạn chưa biết rành về 32-bit và 64-bit, bạn hãy nên sử dụng Windows 32-bit. Khi Windows 7 được giới thiệu, hầu hết mọi người đều cài Windows 7 64-bit mà không hề có chút kiến thức nào về nó, đây là một sai lầm. Tuy 64-bit tốt hơn nhưng nếu vi xử lý của bạn không hỗ trợ cũng như không có những phần mềm thích hợp cho nó thì rất nhiều vấn đề xảy ra.
Windows XP 64-bit
Với hệ thống Windows 32-bit, bạn chỉ được hỗ trợ tối đa 3.5GB RAM. Nhưng với 64-bit thì số lượng RAM hỗ trợ lên đến 264 bits =  17.2 tỉ GBs, 16.3 triệu TBs, hoặc 16 ExaBytes RAM.
Bình thường khi sử dụng hệ thống 32-bit, khi sử dụng quá dung lượng RAM hiện tại, hệ thống tự động chuyển sang sử dụng bộ nhớ ảo hay là dung lượng ổ cứng còn dư để lưu trữ tạm thời. Nhưng trên hệ thống 64-bit, bạn có thể thêm bao nhiêu RAM tuỳ thích, và từ bây giờ, hệ điều hành 32-bit được biết với tên x86 và hệ điều hành 64-bit được biết với tên x64.
Windows 64-bit
Hệ điều hành 64-bit chạy với 12 GB RAM

Windows 32-bit
Hệ điều hành 32-bit “cố gắng” chạy với 7GB RAM: (nhưng chỉ có 2.7GB được sử dụng).
Nên lựa chọn Windows 32-bit hay 64-bit?
Nếu bạn đang sử dụng những ứng dụng đồ hoặc hoặc 3D như AutoCAD, thì không có gì tuyệt hơn khi sử dụng hệ điều hành 64-bit. Nhưng nên nhớ, bạn phải sử dụng tất cả ứng dụng dành riêng cho hệ điều hành 64-bit, như các chương trình, drivers... để máy nhận ra rằng bạn đang xài hệ thống 64-bit. Và đương nhiên, không phải bất kỳ chương trình nào cũng đều hoại động tốt trên 64-bit. Do đó, bạn sẽ thấy 2 thư mục Program Files(32) để cài đặt các ứng dụng 32-bit & Program Files (64) để cài đặt riêng các ứng dụng 64-bit trên Windows 64-bit.
Những lưu ý:
•    Một số chip Semprons có x64; một số không.
•    Không có cou AMD thuộc dòng Durons nào có x64.
•    Tất cả vi xử lý AMD Opteron đều có x64.
•    Tất cả chips AMD X2, FX, Athlon64 đều có x64.
•    Tất cả chips Intel Pentium D và Celeron D đều có x64.
•    Tất cả vi xử lý AMD Turion đều có x64.
•    Tất cả vi xử lý Intel Core 2 đều có x64.
•    Không có vi xử lý notebook Intel Core Duo nào có x64
•    Không có vi xử lý Intel Pentium M nào có x64.
Lưu ý: những máy tính sử dụng cpu có x64 ở trên là những máy tính có thể sử dụng để cài đặt Windows 64-bit





Lựa chọn Windows 7 32 bit hay 64 bit?
Với những người dùng đang muốn chuyển sang sử dụng Windows 7 thì phiên bản Windows 7 64 bit là phiên bản nên lựa chọn. Nhưng nếu dung lượng RAM không đủ (ít nhất 4GB), hay đang sử dụng những thiết bị phần cứng không hỗ trợ driver 64 bit, hay cần nâng cấp từ bản cài đặt 32 bit thì bản Windows 7 32 bit có thể là sự lựa chọn phù hợp hơn.


Một vài bản Windows 7 64 bit cung cấp Windows XP Mode giúp giải quyết một số vấn đề về tương thích cho ứng dụng, nhưng nó cũng không thể khắc phục được mọi vấn đề. Dưới đây là một số thắc mắc khiến người dùng chưa thể đưa ra sự lựa chọn cuối cùng.

1. Máy tính có hỗ trợ Windows 7 64 bit?

Hầu hết các máy tính được sản xuất trong vòng 3 năm trở lại đây (sau khi Vista được ra mắt) đều có khả năng vận hành bản Windows 7 64 bit. Ngoài trừ những máy tính sử dụng dòng CPU cấp thấp không có hỗ trợ phần mở rộng 64 bit của Intel hay AMD. Những loại CPU này bao gồm dòng CPU Atom tốc độ thấp và CPU Core (như Core Duo nhưng không phải Core 2 Duo) trước đó của Intel. Nếu không chắc chắn hệ thống sử dụng loại CPU nào hay CPU có hỗ trợ vận hành bản 64 bit hay không bạn có thể sử dụng tiện ích miễn phí
Processor Identification Utility của Intel để kiểm tra.

2. Windows 7 có hỗ trợ các thiết bị ngoại vi?

Với các máy tính có hỗ trợ, hầu hêt các thiết bị ngoại vi được sản xuất cho Vista đều làm việc với Windows 7. Tuy nhiên khả năng hỗ trợ phần cứng di sản vẫn chưa thể khẳng định. Một số nhà cung cấp, như các nhà cung cấp Network Interface Card (card giao tiếp mạng) hay Disk Storage Controller (trình điều khiển lưu trữ trên đĩa) cập nhật đều hơn so với các nhà cung cấp khác, nhờ đó mà các thiết bị ngoại vi đã được các máy tính 64 bit sử dụng các phiên bản Windows Server từ giai đoạn 2002 – 2003 hỗ trợ. Những thiết bị không có ràng buộc rõ ràng với trung tâm dữ liệu (như những thiết bị đầu vào tùy biến, phần cứng đa phương tiện, máy in, …) rất khó có thể tương thích vì chúng được sản xuất tại thời điểm máy tính 64 bit còn rất hiếm. Tốt nhất bạn nên truy cập vào trang Web của nhà cung cấp để kiểm tra xem hiện có driver 64 bit hay chưa, hoặc tìm một giải pháp để có thể sử dụng những thiết bị này.

3. Có thể sử dụng driver 32 bit của thiết bị trong bản Windows 7 64 bit?

Câu trả lời là không. Một driver của thiết bị là mã đặc quyền vận hành trong cùng một vùng địa chỉ với nhân của Windows. Do đó driver này cần phải phù hợp với cấu trúc của nhân. Một số nhà cung cấp đã tích hợp cả driver 32 bit và 64 bit cho một gói cài đặt, và nhiều người dùng đã nhầm lẫn rằng driver 32 bit vẫn làm việc trong hệ điều hành Windows 64 bit. Tuy nhiên, trong khi driver 32 bit không được hỗ trợ trực tiếp trong Windows 7 64 bit, nhưng người dùng bản Windows 7 64 bit vẫn có thể cài đặt driver 32 bit trong Windows XP Mode và sử dụng máy in kết nối USB hay các thiết bị kết nối USB cùng loại khác với máy ảo Windows XP.

4. Windows XP Mode là gì và làm thế nào để sử dụng?

Câu trả lời đơn giản nhất là Windows XP Mode là một máy ảo chứa bản Windows XP SP3 vận hành trong Virtual PC của Windows 7. Công cụ này hoàn toàn miễn phí, những người bản Windows 7 Pro, Ultimate và Enterprise có thể tải tại
đây.

Về bản chất, Windows XP là một ứng dụng 64 bit (thực ra là hàng loạt dịch vụ và driver 64 bit của các thiết bị) có thể tạo tiến trình 64 bit độc lập phỏng theo môi trường PC 32 bit.

Cần nhớ rằng Windows XP Mode bị giới hạn tạo một môi trường 32 bit ảo cho dù phần mềm Windows Virtual PC nền tảng là 64 bit và đang vận hành trong phiên bản Windows 7 64 bit. Do đó, trong khi có thể cài đặt bản Windows XP 32 bit (hay bản Windows Vista 32 bit hoặc bản Windows 7 32 bit) như một hệ điều hành khách trong trong môi trường Windows Virtual PC (mà sau đó một máy ảo với khả năng tương thích bổ sung cho Windows XP Mode), thì bạn sẽ không thể cài đặt bản Windows XP 64 bit, hay phiên bản Vista hoặc Windows 7 64 bit.

5. Có thể chạy các ứng dụng của Windows 32 bit trong bản Windows 7 64 bit?

Câu trả lời là có. Gần như mọi ứng dụng của Windows 32 bit được hỗ trợ trên Windows XP có thể vận hành như bình thường trên bản Windows 64 bit. Làm được như vậy là nhờ có một công cụ được biết đến dưới tên Win32 on Win64 (hay WOW) giúp chuyển các Call (lệnh được các ứng dụng sử dụng để yêu cầu dịch vụ) API 32 bit từ một ứng dụng Win32 di sản thành Call API 64 bit có thể được các hệ thống phụ riêng của bản Windows 7 64 bit hỗ trợ. Khi đó các ứng dụng 32 bit sẽ vận hành ổn định trên hệ điều hành Windows 64 bit, và hiện nay một số dòng CPU của AMD và Intel còn có khả năng tối ưu hóa tới tốc độ cực đại. Một số ngoại lệ với khả năng tương thích của WOW thường xảy ra với các ứng dụng sử dụng một hay nhiều driver của các thiết bị 32 bit di sản riêng không phù hợp với các phiên bản 64 bit.

Khái niệm WOW không còn xa lạ với người dùng. Một công cụ tương tự đã được phiên bản Windows NT đầu tiên sử dụng để hỗ trợ cho các ứng dụng của hệ điều hành Windows 3.xx 16 bit.

6. Khi cài đặt ứng dụng 32 bit trong bản Windows 7 64 bit không thể thấy các mục Registry?

Như đã nói ở trên, các phiên bản 64 bit của Windows Vista và Windows 7 tích hợp lớp thông dịch WOW để vận hành các ứng dụng 32 bit. Ngoài việc thông dịch các Call API, hệ điều hành Windows 7 64 bit còn phân lập những thay đổi trong Registry mà các ứng dụng 32 bit thực hiện và đưa chúng vào một key phụ đặc biệt trong nhóm Registry phù hợp.

Ví dụ, một ứng dụng 32 bit thực hiện cập nhật một key trong HKEY_LOCAL_MACHINESoftware sẽ tự động lưu những thay đổi của nó tới key Wow6432Node trong key Software chính. Khi mở rộng key này bạn sẽ thấy mọi key và giá trị Registry của ứng dụng 32 bit đã được WOW tự động chuyển.

7. Lợi ích thực thi khi sử dụng bản Windows 7 64 bit?

Điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu bạn đang làm việc với những file dữ liệu lớn hay đang vận hành những ứng dụng chiếm dụng một lượng lớn dung lượng bộ nhớ thì bản Windows 64 bit sẽ mang lại một chút lợi ích so với bản Windows 32 bit đang vận hành trên phần cứng giống hệt nhau ngay cả khi sử dụng các ứng dụng 32 bit. Đó là do hệ điều hành này và các driver của thiết bị cũng hưởng lợi từ những thanh ghi lớn 64 bit của CPU AMD hay Intel khi vận hành trong chế độ 64 bit mở rộng. Ngoài ra, do bản Windows 7 64 bit hỗ trợ nhiều RAM vật lý hơn bản Windows 7 32 bit (192GB trên mọi bản trừ bản Home so với 4GB của bản Windows 7 32 bit), bạn có thể dễ dàng mở rộng khả năng của PC khi sử dụng bản Windows 64 bit.

8. Hệ điều hành Windows 64 bit sử dụng nhiều RAM hơn Windows 32 bit?

Bất kì hệ điều hành 64 bit cũng sẽ chiếm dụng nhiều bộ nhớ hơn so với hệ điều hành 32 bit tương ứng. Đây là do đặc thù của mã 64 bit: Mã này sử dụng những cấu trúc bên trong lớn hơn nên sẽ chiếm dụng nhiều vùng trống hơn, cả trên RAM và ổ cứng. Và thông thường ISO Image của bản Windows Vista và Windows 7 64 bit có dung lượng lớn hơn từ 50 đến 70% so với ÍO Image của bản 32 bit tương ứng, hay bản Windows 64 bit sử dụng dung lượng RAM vật lý cao hơn 20 đến 30 % sau khi khởi động.

9. Windows 7 64 bit bảo mật hơn bản Windows 7 32 bit?

Câu trả lời là có. Nhiều cải tiến trong nhân được Microsoft giới thiệu rộng rãi cùng với Vista chỉ được dùng cho phiên bản 64 bit, bao gồm công cụ Data Execution Prevention và PatchGuard hỗ trợ phần cứng. Ngoài ra, phiên bản Vista và Windows 7 64 bit yêu cầu các driver phải được các nhà cung cấp mã hóa bằng kí tự số để ngăn chặn tin tặc và những kẻ phát tán rootkit và đặt các công cụ khai thác như những driver của nhân.

10. Có thể nâng cấp hệ điều hành Windows 32 bit lên Windows 7 64 bit?

Câu trả lời là không. Tiến trình nâng cấp của Microsoft hiện không hỗ trợ khả năng di chuyển giữa các cấu trúc vi xử lý. Để nâng cấp từ bản Windows 32 bit bản sẽ phải cài mới bản Windows 7 64 bit sau đó di chuyển mọi ứng dụng và dữ liệu sang hệ điều hành mới.

Nguồn PCWorld

Nghịch lý 4G tại Việt Nam



Việt Nam vừa triển khai 3G (3rd Generation – Mạng di động thế hệ thứ 3) cách đây một năm nhưng gần đây, khi 3G chưa thu hồi vốn, thì nhiều nhà mạng lại tiếp tục đầu tư thử nghiệm 4G.
Không những thế, nhiều công ty bên ngoài cũng lấn sân vào 4G (Mạng di động thế hệ thứ 4) mặc dù họ không phải là những nhà cung cấp dịch vụ điện thoại. Chuyện gì đang xảy ra?

Đôi dòng lịch sử

Điện thoại đã được phát triển từ lâu, nhưng đến năm 1945, với sự kết thúc của đại thế chiến thứ hai, nhu cầu sử dụng thiết bị này trở nên tăng vọt do yêu cầu liên lạc đi kèm với sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, … Để đánh dấu, các nhà sử học gọi công nghệ liên liên lạc điện thoại lúc ấy là 0G. Vào thời đó, điện thoại kết nối đấu dây tín hiệu theo kiểu giống như điện thoại cố định bây giờ.
Một điện thoại thời 0G
Đến năm 1980, người ta phát minh ra điện thoại vô tuyến – một dạng như điện thoại di động thời nay. Công nghệ mới cho phép kết nối các điện thoại mà không cần dùng dây dẫn. Phương thức truyền dẫn tín hiệu tiếp theo này được gọi là 1G.
Cuối những năm 1990, điện thoại đã có thêm một số tính năng đặc biệt như gửi e-mail, chụp ảnh và lướt web (nhưng cực kì hạn chế do tốc độ chậm). Như thế, tín hiệu từ các trạm viễn thông không còn đơn thuần chỉ phục vụ việc chuyển tín hiệu cuộc gọi nữa mà còn có khả năng truyền dẫn dữ liệu của các dịch vụ giá trị gia tăng. Vào thời điểm này – công nghệ 2G chính thức ra đời. Khi Việt Nam chỉ có 2 hãng di động duy nhất là Vinaphone và Mobifone thì cả hai hãng này đều sử dụng công nghệ 2G (mạng GSM).
Sau khi Sfone nhập cuộc, cùng với sự xuất hiện của Viettel và nhiều hãng di động khác như Vietnam Mobile, EVN Telecom, … Việt Nam cũng như thế giới liên tục có những thay đổi ngoạn mục về công nghệ điện thoại chỉ trong một thời gian ngắn. Sfone mang đến công nghệ CDMA (chuẩn 2,75G) đầy sức mạnh từ Hàn Quốc, Viettel giới thiệu công nghệ GPRS (chuẩn 2,5G) giúp tăng tốc truyền – dẫn dữ liệu lên rất cao, điều này thúc đẩy Vinaphone và Mobifone phải nâng cấp lên một công nghệ mới cho mạng của mình – đó là công nghệ EDGE (chuẩn 2,75G).
3G và khởi đầu cho những tính năng đặc biệt trên điện thoại
Cách đây một năm, khi Việt Nam chính thức triển khai 3G, 5 doanh nghiệp viễn thông đã dành được quyền khai thác dịch vụ này. 2,5G, 2,75G hay 3G chỉ khác nhau chủ yếu về tốc độ và các dịch vụ vụ nội dung đi kèm. Khi chỉ số G càng tăng thì đồng nghĩa mạng cung cấp công nghệ đó làm càng được nhiều việc, nhiều tính năng. Hiện tại, công nghệ 3G cho phép điện thoại di động truy cập Internet, e-mail, tin nhắn tức thì và giúp máy tính kết nối với Internet không dây với tốc độ cao.

Đi chung đường

Trước kia, các chuẩn kết nối dùng cho điện thoại và máy tính là riêng biệt với nhau. Tuy nhiên, thực tế này bắt đầu thay đổi khi một số công ty điện thoại như Nokia, BlackBerry, iPhone, … phát triển tính năng cho phép người dùng máy tính biến điện thoại thành modem để truy cập Internet…không dây. Phần lớn người dùng Việt Nam chắc hẳn còn rất nhớ cái thời khi mà kết nối Internet cho máy tính phải dùng “ké” đường dây của điện thoại (kết nối Dial-up, tốc độ tối đa 56kbps) với tốc độ siêu “rùa” và cước phí “cắt cổ”. Tuy nhiên, so sánh với tốc độ của 2G (GSM – tốc độ 14.4 kbps), 2,5 G (GPRS – tốc độ 32 kbps) và 2,75 G (EDGE – tốc độ 48 kbps) thì kết nối bằng dial-up vẫn cho tốc độ cao hơn.
Những hạn chế về tốc độ đó khiến công nghệ phải phát triển để tìm ra những chuẩn kết nối nhanh hơn. Với máy tính, ADSL ra đời và cho đến giờ vẫn là lựa chọn duy nhất cho phần lớn mọi người tại Việt Nam và thế giới khi kết nối Internet với tốc độ lên tới 24Mbps (nhanh hơn 400 lần so với các kết nối dial-up hoặc kết nối của điện thoại). Và đến lúc ấy, nhiều hãng công nghệ lại phát triển được những phương pháp giúp điện thoại có thể truy cập Internet gián tiếp qua máy tính. Nhu cầu kết nối Internet cho máy tính ở nơi không cần dây dẫn, nhu cầu kết nối mạng cho điện thoại với tốc độ cao – điều ấy khiến các chuẩn kết nối chung cho cả máy tính và điện thoại được định hình và xuất hiện.

Xu thế tất yếu

Xu hướng chủ đạo trong việc phát triển các công nghệ kết nối cho điện thoại và máy tính là tốc độ càng cao càng tốt. Nếu như trước kia, khi nghiên cứu những chuẩn truyền dữ liệu cho điện thoại, người ta thường cố gắng sao cho tương thích với công nghệ điện thoại và ngược lại cho máy tính, thì ngày nay, việc tương thích ấy sẽ dành cho các nhà phát triển phần cứng khác. Thực tế, khi 3G tại Việt Nam ra đời chỉ dùng cho điện thoại thì chỉ vài ba tháng sau, các USB 3G của Sfone, Vinaphone, Mobifone, Viettel lần lượt được tung ra thị trường.
Về mặt lí thuyết, 3G cho tốc độ kết nối lên tới 14,7 Mbps và thực tế, trên các diễn đàn công nghệ ở Việt Nam, bên cạnh các lời than phiền đôi lúc sóng 3G yếu, còn có rất nhiều phát biểu tán dương tốc độ của 3G khi lướt net trên máy tính. Theo ông Đỗ Trung Tá, nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, phái viên của Thủ tướng Chính phủ về công nghệ thông tin, Phó Ban chỉ đạo quốc gia về công nghệ thông tin thì “nếu tăng 10% sử dụng 3G thì GDP cũng tăng 11%”. Đó cũng là lí do, dù kinh tế đang suy thoái, các mạng di động vẫn mạnh tay đầu tư 33.822 tỉ đồng cho 3G.
Song song phát triển 3G, một số công ty như Viettel, VNPT (quản lí Vinaphone, Mobifone), ... cũng ra sức phát triển 4G. 4G là một công nghệ truyền thông không dây tiếp sau 3G, cho phép truyền tải dữ liệu với tốc độ lên tới 1-1,5 Gbps (nhanh hơn ADSL 40-60 lần). Mặc dù còn nhiều tranh cãi, nhưng hiện nay, có nhiều đồng ý với quan điểm cho rằng, công nghệ cụ thể của 4G là Wimax và LTE. Công nghệ Wimax (tốc độ 1 Gbps) hiện đang được Nokia, Intel, Motorola, … tập trung đầu tư mạnh với số tiền lên tới vài tỉ USD. Trong khi 4G LTE đang được hầu hết các hãng viễn thông lớn trên thế giới như Alcatel-Lucent, Ericsson, ZTE quan tâm và phát triển. Chỉ khoảng một tháng sau khi được cấp giấy phép thử nghiệm, VNPT đã bắt tay vào thử nghiệm công nghệ 4G LTE và đạt tốc độ 100 Mbps ngay cả khi người dùng di chuyển với tốc độ cao.
Giải thích cho việc vừa đầu tư cho 4G trong khi 3G vẫn chưa đi tới đâu, ông Lâm Hoàng Vinh, Giám đốc VinaPhone nói “xây dựng 3G đều dựa trên hai tiêu chí cơ bản là nhu cầu sử dụng và khả năng chi trả của khách hàng. Đây cũng chính là khó khăn của các mạng triển khai 3G hiện nay. Chúng tôi dự tính sẽ mất khoảng 7 năm thì mới thu hồi lại nguồn vốn đã đầu tư vào 3G”. Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ 3G còn chậm và các nội dung cung cấp cho điện thoại 3G không phong phú. Vì thế, giải pháp tốt nhất là “lôi kéo” được cả những người dùng máy tính vào. Những thử nghiệm đầu tiên cho hướng này chính là việc các mạng di động lần lượt cung cấp USB 3G cho người dùng máy tính.

Trợ lực từ bên ngoài

Tuy thế, con đường 3G hay 4G của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không cô đơn. Trong quá trình triển khai 3G, các mạng di động luôn được khá nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật. Riêng với 4G, ngay sau khi có giấy phép, Alltech Telecom (liên bang Nga) đã bắt tay ngay với VNPT để hợp tác thành lập liên doanh RusViet Telecom, khởi động “con đường 4G”. Riêng với các doanh nghiệp được cấp phép 4G khác như FPT Telecom, CMC, VTC (các công ty cung cấp dịch vụ Internet cho máy tính vốn không thể chen chân vào được trong lĩnh vực điện thoại) cũng muốn sử dụng 4G như một lá bài, trước nhất là để bảo vệ “lãnh địa” của mình, thứ nữa – theo sự đánh giá của nhiều chuyên gia, họ muốn thử nghiệm đến việc “lấn sân” sang vùng đất màu mỡ mà các công ty viễn thông di động đang nắm giữ. Minh chứng của việc này, đó là nhiều công ty chuyên doanh điện thoại như FPT có khả năng sẽ sử dụng 4G như một chiêu khuyến mãi riêng khi bán điện thoại. Đó là điều mà những doanh nghiệp khác không muốn.

Những thách thức

Mặc dù có sẵn những lợi thế lớn về 4G nhưng chắc chắn, các doanh nghiệp triển khai công nghệ này cũng sẽ gặp không ít khó khăn. Người dùng thường phàn nàn rất nhiều về tốc độ kết nối Internet do các doanh nghiệp triển khai. Bởi thế, điều cần làm ngay – đó là phải khắc phục càng sớm càng tốt các vấn đề liên quan đến tốc độ. Trong một động thái gần đây, một đại diện của Mobifone đã cam kết “chất lượng trước, lợi nhuận sau” đã khiến phần nhiều khách hàng an tâm. Ngoài ra, vấn đề bảo mật cho kết nối vẫn là điều mà doanh nghiệp cần phải đầu tư nghiên cứu. Những hạn chế về bảo mật của kết nối 3G, hay thậm chí là Wi-Fi, Bluetooth khiến cho các chuẩn kết nối này gặp nhiều phản ứng gay gắt, do đó – sẽ là tự sát nếu như 4G cũng đi vào vết xe đổ này.
Có thể bạn có trong tay sản phẩm 4G mà không biết
Tuy nhiên, dù khó khăn là thế, nhưng chắc chắc, mở sang năm mới, 4G sẽ mang lại nhiều giá trị hơn cho các doanh nghiệp triển khai nó lẫn cho khách hàng sử dụng. Theo một báo cáo, các doanh nghiệp viễn thông ít bị ảnh hưởng bởi suy thoái do nhu cầu sử dụng của khách hàng liên quan đến dịch vụ này cũng thiết yếu giống như ăn, uống vậy. Và thực tế, chính ông Bùi Thiện Minh, Phó Tổng giám đốc VNPT cũng khẳng định “cũng như các doanh nghiệp của Việt Nam, VNPT ít nhiều bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, do nhu cầu của người dân đối với các dịch vụ viễn thông ngày càng cao nên các doanh nghiệp viễn thông vẫn tăng trưởng mạnh”.
Theo Tạp Chí Khám Phá Mobile Review (Số 52 - ra ngày 25/4/2011)
Girls Generation - Korean