Hiển thị các bài đăng có nhãn doanh nghiep. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn doanh nghiep. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Phân tích chu kỳ vốn lưu động của doanh nghiệp


PHÂN TÍCH CHU KỲ VỐN LƯU ĐỘNG

Để giúp người đọc hiểu rõ bản chất của vấn đề và đáp ứng yêu cầu công việc, GiangBLOG sẽ chia Tài chính doanh nghiệp thành 04 nhóm đối tượng chính như sau:
1. Tài chính doanh nghiệp dành cho nhà quản lý: là chủ doanh nghiệp, giám đốc tài chính, hay người phụ trách về tài chính của tổ chức.
2. Tài chính doanh nghiệp dành cho nhà đầu tư: là người hùng vốn vào doanh nghiệp, nhà đầu tư chứng khoán,...
3. Tài chính doanh nghiệp dành cho ngân hàng: là cán bộ tín dụng, trưởng phòng tín dụng, giám đốc ngân hàng...
4. Tài chính doanh nghiệp dành cho người yêu thích nghiên cứu về lình vực tài chính, sinh viên, ….
Mặc dù chia thành 04 nhóm nhưng vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp nghiên cứu vẫn không thay đổi, vì vậy người đọc có thể xem qua các dạng bài phân tích để hiểu vấn đề mà mình quan tâm hơn.

Bài toán 1: (tài chính doanh nghiệp dành cho CÔNG TY)
PHÂN TÍCH CHU KỲ VỐN LƯU ĐỘNG
*.*.* *.............**.*.*
*.*......*.*......*.*.........*.*
*.*..............*................*.*
*.*.........LOVE..........*.*
*. (\__/) (\__/) .*
(^_^) (='o'=)
(")__(") (")__(")
1. Số liệu công ty cung cấp:
Bảng 1: Chỉ tiêu trong Bảng cân đối kế toán
Chỉ tiêu
...31/12/2000...
...31/12/2001...
...31/12/2002...
Phải thu khách hàng
2.800
3.200
2.300
Hàng tồn kho
6.320
6.240
7.600
Phải trả người bán
2.550
1.700
2.380
Bảng 2: Chỉ tiêu trong Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Chỉ tiêu
...Năm 2001...
...Năm 2002...
Doanh thu thuần
27.500
31.000
Giá vốn hàng bán
19.100
22.000
Doanh số mua hàng (*)
18.900
23.300
(*): Doanh số mua vào không thể hiện trực tiếp trên báo cáo tài chính. Vì vậy, phải tổng hợp một số chỉ tiêu từ bảng cân đối số phát sinh.
Từ số liệu bảng 1 và 2 ta tính được như sau:
Chỉ tiêu
...31/12/2001...
...31/12/2002...
...So sánh...
Mức tiết kiệm
vốn lưu động (tr.đ)
Số ngày tồn kho
118
113
(5)
-314
Số ngày thu tiền bán hàng
39
32
(7)
-632
Số ngày trả tiền mua hàng
40
31
(9)
-580
Chu kỳ vốn lưu động
117
113
(4)
(366)
2. Phân tích
-         Số ngày dự trữ hàng tồn kho năm 2001 là 118 ngày, năm 2002 là 113 ngày, giảm được 5 ngày, có thể do công ty đã có biện pháp quản lý hàng tồn kho tốt hơn, giảm tồn kho ứ đọng và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm…
-         Số ngày thu tiền bán hàng năm 2001 là 39 ngày, năm 2002 là 32 ngày, giảm được 7 ngày, có thể là do công ty thay đổi chính sách bán chịu, áp dụng các biện pháp thu hồi nợ gắt gao hơn hoặc nâng tỷ lệ chiết khấu thanh toán cho khách hàng.
-         Số ngày trả tiền mua hàng năm 2001 là 117 ngày, năm 2002 là 113 ngày, giảm  4 ngày, có thể do công ty không thành công trong đàm phán và không được nhà cung cấp bán chịu với thời hạn dài hơn. Cũng có thể công ty có khả năng thanh toán đúng hạn các khoản nợ cho nhà cung cấp làm nợ giảm.
Tóm lại, trong năm 2002 do rút ngắn chu kỳ vốn lưu động xuống 4 ngày so với năm 2001, công ty đã tiết kiệm được 366 tr.đ vốn lưu động. Trong đó, rút ngắn được thời gian tồn kho 5 ngày tiết kiệm được 314 tr.đ, rút ngắn thời gian thu tiền bán hàng 7 ngày giảm được 632 tr.đ. Tuy nhiên do công ty phải giảm số ngày chiếm dụng vốn của người bán 9 ngày nên nhu cầu vốn lưu động đã tăng lên 580 tr.đ./.

---------------------------------------------------
Sưu tầm

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

7 cách khởi nghiệp kinh doanh với vốn dưới 10 triệu đồng


Cách tốt nhất để tiến hành kinh doanh với vốn dưới 500 USD (khoảng 10 triệu đồng) là chọn những việc mình thích làm mà người khác sẽ trả tiền nếu mình làm việc đó cho họ. Quan trọng là bạn phải có tài lẻ!

Bạn có yêu thích công việc sửa chữa trong gara ô tô, thích làm bánh, chế tác đồ trang sức hay tổ chức các sự kiện đặc biệt? Nếu bạn đang nung nấu dự định bắt đầu sự nghiệp kinh doanh thì có lẽ đây là thời điểm thích hợp để biến những sở thích nói trên thành công việc kinh doanh phát triển, ngay cả khi chỉ với số vốn khởi đầu ít ỏi.

Clyde Anderson, chuyên gia tư vấn tài chính kiêm cộng tác viên của tờ CNN cho biết “Cách tốt nhất để khởi nghiệp với với số vốn ít hơn 500 đô la là tìm ra một hướng đi để kiếm lời từ những sở thích của bạn. Một điều rất quan trọng đối với những ai có dự định kinh doanh là xác định xem họ có những tài năng nào nổi trội làm nền tảng cho công việc của mình.”
1. Bánh nướng
Bánh ngọt và bánh nướng là những cái tên không thể thiếu trong thực đơn của bất cứ một bữa tiệc nào. Hơn thế nữa, những chương trình truyền hình thực tế về các loại đồ ăn như Cupcake Wars đã biến công việc làm bánh vốn rất phổ biến trở thành một ý tưởng kinh doanh mới mẻ. 
Nichelle Stephens, một blogger kiêm chuyên gia về bánh nướng bật mí chỉ với 500 đô la, hay thậm chí ít hơn là bạn đã có thể kinh doanh mặt hàng này. Stephens còn chia sẻ trên trang blog của cô rằng khi mới khởi nghiệp kinh doanh bánh nướng, bạn sẽ tiêu tốn nhiều thời gian hơn chứ không phải tiền bạc. 
Trước tiên, bạn cần tìm một địa điểm kinh doanh phù hợp nơi có ít mặt hàng này và tạo nên điểm khác biệt riêng có của thương hiệu mình. 
Bước tiếp theo, bạn sẽ phải đầu tư thêm máy trộn bột, chảo nướng và vỉ lưới. Nhân viên sẽ chính là những người cho ý kiến về sản phẩm và quảng bá thương hiệu tới đông đảo khách hàng.
2. Văn phòng công chứng di động
Dù cho khoa học có phát triển thế nào đi chăng nữa thì những giấy tờ quan trọng như giấy sở hữu nhà đất, di chúc hay giấy cho vay vẫn cần được đóng dấu và công chứng. Nhiều ngân hàng và công ty bất động sản được cấp giấy phép công chứng, song xu thế thịnh hành hiện nay là công chứng di động – nhân viên công chứng sẽ đến tận nhà hay công ty bạn để làm việc. 
Nếu muốn biến xu thế này thành ý tưởng kinh doanh, bạn cần ghi nhớ những nguyên tắc sau: 
Bạn cần phải dự một khóa học về công chứng và thi để lấy giấy phép. Sau khi đã hoàn thành bước đầu tiên rất quan trọng này, bạn nên thông báo với bạn bè, gia đình và đồng nghiệp về công việc kinh doanh mới. 
Tiếp đó, bạn nên lập một website để khách có thể tìm hiểu những thông tin cần thiết. Một điều nữa cũng không kém phần quan trọng là tạo nên nét riêng biệt cho chính mình. Dany Victory, ông chủ của website công chứng mobilenotarypublic.com cho biết: “Công ty chúng tôi chuyên công chứng các giấy tờ vay vốn. Chính điều này đã mang lại cho công ty nhiều khách hàng như các nhà môi giới bất động sản và các công ty xác minh quyền sở hữu.” 
Với văn phòng công chứng di động, bạn chỉ phải bỏ ra chi phí thấp nhưng thu về không ít lợi ích như được đi lại, kết giao với nhiều người và hưởng tiền lãi từ việc cung cấp dịch vụ tới tận nhà.
3. Huấn luyện viên riêng
Với nhiều người có số cân nặng không như mong muốn, việc giảm cân ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, điều này kéo theo nhu cầu tìm những huấn luyện viên chuyên nghiệp hướng dẫn bài tập giảm cân. Nếu bạn là một chuyên gia thể hình hay vận động viên chạy, bạn đã có thể kiếm được một khoản không nhỏ dựa trên những gì bạn được học bằng cách hướng dẫn những bài tập thể lực, chạy marathon, tập yoga hay nhảy Zumba. 
Muốn kinh doanh bằng nghề này, trước tiên bạn cần được cấp chứng chỉ huấn luyện viên. Tiếp theo, bạn cần trang bị một số “đồ nghề” cơ bản như máy chạy CD, bóng tập thể hình, đệm thể thao...
Muốn thuyết phục khách hàng tìm đến mình, hãy kể cho họ nghe câu chuyện giảm cân của chính bạn và cũng đừng ngần ngại chia sẻ những bức ảnh trước và sau khi giảm cân trên website riêng hay Facebook. 
Để tìm kiếm khách hàng, bạn có thể bắt đầu với những mối quan hệ quen biết tại phòng tập trước đây, thông báo với bạn bè, đồng nghiệp, những người hoặc không có thời gian đến phòng tập hoặc ngại đến những phòng tập đông người. Bạn cũng nên đề nghị được trở thành huấn luyện viên tại trung tâm để có thời gian học những kinh nghiệm cần thiết. 
Ngay cả khi đã nghỉ hưu, bạn vẫn có thể trở thành huấn luyện viên thể hình như trường hợp của John Leber. Sau vài tháng tham dự một vài khóa học và hội thảo, ông đã thi lấy chứng chỉ tại Học viện Y học Thể thao quốc gia (NASM). Khách hàng của Leber thường ở độ tuổi trên 50 và muốn phục hồi sau chấn thương.
4. Chuyên gia quản lý công việc
Không ít người trong số chúng ta cảm thấy đau đầu và áp lực khi sắp xếp công việc cá nhân. Nắm bắt xu thế này, một ý tưởng kinh doanh mới đã ra đời, đó là giúp những người quá bận rộn với công việc sắp xếp việc nhà cửa, cơ quan và những vấn đề khác trong cuộc sống đi vào quy củ. Đây là một công việc phù hợp cho những ai có tính cẩn thận, gọn gàng và khả năng tổ chức. Bạn có thể ra giá theo giờ, nửa ngày hay cả ngày cho dịch vụ này. 
Một lời khuyên bổ ích dành cho những người mới bước chân vào nghề là chỉ nên chuyên về một lĩnh vực như dọn dẹp gara ô tô, lên kế hoạch cho giám đốc hay giúp những người phụ nữ thành đạt hoàn thành việc nhà. 
Câu chuyện sau đây của Debbie Lillard, một chuyên gia trong nghề, đồng thời cũng là chủ trangAbsolute Organized có thể là một gợi ý hay cho những người muốn thử sức với công việc này. Sau nhiều năm chỉ ngồi không ở nhà, Lillard đã bắt tay vào nghề chuyên về quản lý công việc bán thời gian. Cô đã liên lạc với bạn bè, những người thường đau đầu với công việc nhà cửa, công sở bộn bề, sau đó, cho in thiệp và tờ rơi phát tại những cửa hàng rau củ. Lillard đã viết một bức thư giải thích những ai cần đến dịch vụ này cùng những tiện ích của nó rồi gửi đến những người quen biết. Chính việc làm này đã mang về cho cô khách hàng đầu tiên, và từ đó tiếng lành đồn xa, không ít người đã tìm đến với dịch vụ của Lillard. 
Chỉ sau vài tháng, cô đã mở một website, cho ấn bản hai cuốn sách tư vấn về cách thức quản lý công việc. Còn bạn thì sao, nếu cảm thấy có khả năng và yêu thích công việc này thì đừng ngần ngại thử sức, biết đâu vận may sẽ gõ cửa.
5. Trợ lý marketing truyền thông
Với sự phát triển vũ bão của ngành truyền thông thế giới, không ít ông chủ cảm thấy khó lòng mà bắt kịp được với những xu hướng mới. Nếu sở hữu kỹ năng viết lách, biên tập cừ khôi và kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực quan hệ công chúng và marketing, bạn nên nghĩ đến việc phát triển những khả năng đó thành một nghề kinh doanh hái ra tiền, đó là trợ lý marketing truyền thông. 
Công việc của bạn sẽ là giúp khách hàng phát triển chiến lược truyền thông, lập blog, Facebook Fan Pages, tài khoản Twitter, LinkedIn hay Google+. Câu chuyện của Cathy Larkin, chủ công ty quan hệ công chúng Web Savvy có thể cho bạn một vài ý tưởng hay trước khi khởi nghiệp với công việc mới mẻ này. 
Cách mà Cathy làm là cung cấp những dịch vụ cung cấp thông tin trực tuyến. Điều đầu tiên Cathy làm đó là học thành thạo những kỹ năng cơ bản, sau đó chọn lấy một lĩnh vực chuyên sâu đối với những khách hàng mà cô nhắm tới. 
Khi mới bắt tay vào công việc này, bạn phải luôn sẵn sàng làm việc không công để chứng tỏ rằng bạn nắm rõ những gì đang làm, dần dần bạn sẽ có những lời mời làm việc đầu tiên. 
Chìa khóa dẫn tới thành công đối với công việc trợ lý marketing truyền thông là luôn cập nhật những thông tin mới nhất trong lĩnh vực vốn biến động không ngừng này.
6. Chế tác đồ trang sức
Đối với những người thích tỉ mẩn làm những đồ handmade, họ hoàn toàn có thể phát triển sở thích này thành một công việc kinh doanh tại gia. 
Điều trước tiên bạn cần làm là tạo nên nét đặc biệt riêng có đối với các sản phẩm của mình, dù cho là vòng cổ, trang sức bạc hay thép không rỉ. Bạn cũng cần đặt tên cho thương hiệu của mình, chế tác các món hàng mẫu, chuẩn bị những bức ảnh về sản phẩm để bắt đầu công việc quảng bá thương hiệu. Patricia Miller, bà chủ của thương hiệu trang sức Velvet Box in Flint đã bắt đầu yêu thích với công việc này khi giúp một người bạn đặt hàng trang sức. 
Miller đã bắt đầu công việc kinh doanh của cô với một số sản phẩm vòng tay, sau đó lập trang web bán hàng trực tuyến Etsy.com. 98% các sản phẩm của Miller được các khách hàng quen đặt hàng và giới thiệu cho bạn bè, người thân đến mua. Thông thường, những người kinh doanh các sản phẩm trang sức thường mở các gian hàng bán lẻ tại các hội chợ để quảng bá sản phẩm. 
Đây cũng là một gợi ý hay để bạn thử liên kết với các phòng trưng bày nghệ thuật địa phương hay các cửa hàng thời trang. Và không ai khác, chính bạn cũng có thể góp phần quảng bá sản phẩm bằng sách đeo các loại trang sức do mình chế tác đến các sự kiện lớn hay bất cứ nơi đâu.
7. Chuyên viên tư vấn hình ảnh cá nhân/thương hiệu
Bạn có thuộc tuýp người khiến không ít người phải dừng lại, ngoái nhìn và thốt lên “Woa, bạn trông tuyệt quá! Bạn có phiền đi mua sắm với tôi không?” Nếu câu trả lời là có thì bạn không chỉ là một người nhanh nhạy với những xu hướng mới nhất mà còn sở hữu những kỹ năng để trở thành một chuyên viên tư vấn hình anh cá nhân hay thương hiệu. 
Tracey Reed, chủ hãng tư vấn hình ảnh Tracey Evelyn Beatiful You có trụ sở đặt tại Philadelphia chia sẻ “Cả nam giới và nữ giới đều cần phải trau chuốt hình ảnh bản thân, và tôi là người giúp sáng tạo và làm mới hình ảnh của họ, từ những bài học trang điểm đến mua sắm.” 
Nếu bạn muốn kiếm tiền bằng nghề này, bạn phải am tường các kiến thức về màu sắc, các phối màu, các chất liệu vải và các mốt trang phục. Những khách hàng tiềm năng của bạn chính là những người phụ nữ thành đạt, người quá bận rộn để mua sắm, những cô dâu cần trang điểm trước ngày trọng đại và cả những quý ông muốn hình ảnh của mình tại công sở trở nên ấn tượng hơn. 
Bạn nên lập một trang blog để chia sẻ những mẹo nhỏ về phong cách, thử Facebook và các mạng xã hội khác để tìm kiếm khách hàng. Nếu có website, bạn cũng có thể giới thiệu những gói dịch vụ đặc biệt, chia sẻ kinh nghiệm và những trải nghiệm của khách hàng trước và sau khi đến với công ty của bạn.
Những gợi ý trên đây đều vô cùng hữu ích để bạn tham khảo và chọn lựa. Tuy nhiên, một điều nên ghi nhớ là bạn vẫn cần kế hoạch marketing và kế hoạch kinh doanh để theo sát công việc, quản lý vốn và các chi phí khác.
Theo TTVN/Entrepreneur

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

Điều gì đã giết chết “gã khổng lồ” Kodak?


Eastman Kodak đang bên bờ vực phá sản không chỉ vì máy ảnh phim đang chết dần chết mòn.

Điều gì đã giết chết “gã khổng lồ” Kodak?
Với hàng hoạt khó khăn, hãng máy ảnh 131 năm tuổi của Mỹ Kodak có thể phải đối mặt với phá sản. Theo tờ Wall Street Journal (WSJ), Kodak sẽ nộp đơn phá sản theo chương 11 Luật Phá Sản Mỹ trong vài tuần tới trừ khi bán hết số bằng sáng chế giá trị mà hãng này đang sở hữu. Điều này khiến người ta liên tưởng tới hình ảnh một người đang đốt dần những vật dụng trong nhà để sưởi ấm trong mùa đông lạnh giá.

Kodak là ví dụ điển hình cho một ông lớn ở thế kỷ 20. Trụ sở chính của công ty nằm ở một thành phố yên bình - Rochester, New York. Công ty trở nên hưng thịnh nhờ kinh doanh phim máy ảnh, lĩnh vực trở nên lỗi thời sau cuộc cách mạng kĩ thuật số.


Trong bối cảnh thời cuộc thay đổi, Kodak vẫn đứng vững. Hơn thế, công ty thường xuyên tung ra những sản phẩm mới có tính đột phá. Tuy nhiên, hãng vẫn thất bại do không tìm được mô hình kinh doanh bền vững, gợi người ta nhớ tới trường hợp của gã khổng lồ khác – AOL.

AOL vẫn tồn tại dựa vào những gì còn sót lại của lĩnh vực kinh doanh mạng dial-up trong khi các nhà quản lý muốn biến công ty thành một doanh nghiệp có hoạt động chính là truyền thông – nội dung. Công ty đã xây dựng được một trang thu hút lượng page-view lớn là The Huffington Post. Tuy nhiên, không ai có thể chắc chắn AOL có thể tạo ra lợi nhuận trước khi “con bò sữa” kế thừa từ mảng kinh doanh mạng dial-up chết

Một cách nào đó, Kodak lặp lại lịch sử khi hãng nỗ lực biến mình thành công ty hàng đầu ngành máy ảnh số, và gần đây nhất là trở thành nhà sản xuất máy in cao cấp.

Kodak không phải là “kẻ đến sau” trong ngành nhiếp ảnh kĩ thuật số. Thực tế, Kodak là người tạo ra nó. Năm 1975, các kỹ sư của hãng đã cùng nhau đưa ra sản phẩm mẫu đầu tiên và gọi công nghệ mới này là “nhiếp ảnh không cần phim”. Năm 1991, họ hợp tác với Nikon để tung ra thị trường máy ảnh số chuyên nghiệp, và đến năm 1996, họ cho ra đời máy ảnh kỹ thuật số tự động đầu tiên.



Song so với các đối thủ như Fuji hay Olympus, Kodak đã tiến rất chậm. Thay vì chú tâm vào lĩnh vực có thế mạnh là sản xuất và bán phim máy ảnh, CEO của hãng lúc đó là Dan Carp đã đồng ý để đầu tư 2/3 ngân sách nghiên cứu và phát triển (R&D) vào các dự án kĩ thuật số.

Kết quả ban đầu đúng là thành công tuyệt vời. Vào tháng 4/2001, Kodak cho ra đời dòng máy ảnh kĩ thuật số EasyShare với những ưu việt như dễ dàng copy ảnh ra máy tính và thời lượng pin cao hơn các sản phẩm của đối thủ. Đến kỳ Giáng sinh, những chiếc máy ảnh của Kodak đều được bán hết tại các cửa hàng. Vào năm 2005, Kodak là hãng bán máy ảnh số chạy nhất ở Mỹ.

Nhưng trong khi máy ảnh số vẫn được khách hàng chào đón thì đã có một quả bom “nổ chậm” đang đe dọa Kodak. Trong đợt bán hàng giảm giá đầu tiên của Giáng sinh năm 2006, tờ Businessweek thông báo những dấu hiệu cho thấy số lượng tiêu thụ máy ảnh số sẽ giảm. Quả thực như vậy, máy ảnh dần dần trở nên phổ biến khiến việc kiếm tiền từ sản phảm này bắt đầu trở nên khó khăn hơn. Lúc đó, CEO hiện tại của Kodak, Antonio Perez nói rằng máy ảnh số là “ngành kinh doanh tệ hại”.

Tuy nhiên vốn đầu tư của Kodak vào công nghệ số không hề phí phạm. Chính điều này đã tạo nên tài sản “chất xám” đáng giá giúp cho công ty tiếp tục thịnh vượng trong vài năm sau đó. Nói cách khác, Kodak trở thành gã khổng lồ của những bằng sáng chế. Theo WSJ, công ty đã kiếm được 1,9 tỷ USD trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2010 thông qua nhượng quyền sáng chế và kiện tụng bản quyền.

Số tiền đó được sử dụng để thúc đẩy công ty đi lên trong khi Kodak bắt đầu đầu tư vào một “đích” mới: Máy in. Trước khi đến Kodak vào năm 2003, ông Perez đã từng làm điều hành mảng kinh doanh máy in phun ở Hewlett-Packard (HP). Do đó ông nghĩ rằng Kodak đang có cơ hội để tiên phong trong lĩnh vực này.



Và như WSJ giải thích trong tháng 8: Kodak bắt đầu bán máy in từ 2007. Chiến lược của họ là trở thành người đứng đầu trong ngành này bằng việc bán những chiếc máy in đắt hơn và mực in rẻ hơn. Năng lực cạnh tranh cốt lõi của hãng là một sự đánh cuộc bởi công nghệ nano sử dụng trong chế tạo phim có thể giúp các nhà khoa học của Kodak sản xuất ra thứ mực in không làm tắc các khay chứa mực. Điều này giúp người sử dụng máy in không phải mất thêm chi phí thay thế khay mực mỗi lần đổi mực cho máy.

Theo IDC, thị phần máy in phun đa năng của Kodak trên toàn cầu tăng từ 1% năm 2008 lên 3% năm 2010. Chiến lược trợ giá máy in của Kodak có tác động tốt tới doanh số mực in. Nhờ vào mực in rẻ, Kodak có thể bán máy in của mình với giá cao hơn các sản phẩm của đối thủ.

Doanh số tiếp tục tăng, song đến qúy 4/2010 những chiếc máy in tân tiến của Kodak đã không đem lại lợi nhuận. Và công ty vướng phải một vụ kiện tụng với RIM và Apple về công nghệ máy ảnh trên smartphone khiến thu nhập từ hoạt động này tiếp tục giảm sút.



Hiện nay, Kodak đang cố gắng bán hết những bằng sáng chế trong lĩnh vực kỹ thuật số của công ty, những thứ có khi còn giá trị hơn vốn hóa thị trường của hãng. Theo một cách nào đó, đó chính là phép ẩn dụ phù hợp với lịch sử của công ty trong những năm gần đây: Sáng tạo tuyệt vời nhưng kinh doanh chẳng ra làm sao!

Nguồn The Alantic

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2011

Đằng sau sự phá sản của 49.000 doanh nghiệp


Khi không thể tiếp tục vay vốn, dự án dở dang sẽ nằm bất động. Trang thiết bị, máy móc cũng trở thành sắt vụn. Nếu phá sản, giải thể, sẽ có tác động lớn, đó là vốn vay ngân hàng sẽ khó có thể thu hồi.


Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, đến tháng 9 năm nay, có gần 49.000 DN đã giải thể, phá sản, ngừng hoạt động, ngừng nộp thuế. Trong đó, phá sản, giải thể là 5.800 DN, khoảng 11.500 DN ngừng hoạt động và 31.500 DN ngừng nộp thuế.

Như vậy bình quân một quý có trên 12.000 DN giải thể, phá sản,ngừng hoạt động, ngừng nộp thuế. Với tốc độ này, dự báo cả năm 2011 số DN lâm vào tình trạng như trên có thể chiếm tới 10% trong tổng số 600.000 DN cả nước hiện nay.

Trong nền kinh tế thị trường, chuyện DN giải thể, phá sản, ngừng hoạt động là chuyện bình thường, nhưng khi DN lâm vào tình trạng này, những tác động mà nó gây ra cho xã hội không phải là nhỏ. Trước hết, một lượng lớn những người lao động sẽ bị nợ lương, nghỉ việc. DN thì nợ bảo hiểm xã hội, nợ tiền điện, viễn thông, nước, nợ ngân hàng...

Chẳng hạn, khi Công ty cổ phần Thép Vạn Lợi (Hải Phòng) phải ngừng sản xuất thời gian qua, thì hơn 2.000 lao động hiện không có việc làm, phải nghỉ việc, bị nợ lương. Vạn Lợi hiện đang nợ tiền điện hơn 11 tỷ đồng và nợ Bảo hiểm xã hội TP. Hải Phòng gần 7 tỷ đồng. Ngoài ra, DN này đang là con nợ của 6 tổ chức tín dụng, với nhiều món nợ xấu, giá trị lớn lên tới hơn 1.000 tỷ đồng. Đó là thực tế khác xa với tương lai của Vạn Lợi được "vẽ" ra hơn một năm trước. Thời điểm tháng 7/2010, trên sàn OTC, quy mô Vạn Lợi được "vẽ" với 14 doanh nghiệp thành viên, "doanh số khoảng 10.000 tỷ đồng/năm và sẽ đạt 1 tỷ đôla vào năm 2012".

Số DN cho người lao động nghỉ việc, nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội ngày càng tăng. Chỉ tính riêng trong ngành xây dựng đến tháng 6/2011đã có 1.118 lao động mất việc làm; 4.549 lao động không đủ việc làm. Đáng chú ý là có 66 doanh nghiệp nợ lương người lao động với tổng số tiền 134 tỷ đồng; 79 đơn vị nợ tiền bảo hiểm xã hội với tổng số tiền 85 tỷ đồng.



Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), bình quân trước đây, mỗi năm có khoảng 5.000-7.000 doanh nghiệp phá sản, giải thể. Năm nay, ước khả năng con số này sẽ gấp rưỡi đến gấp đôi. Điều này cho thấy tình hình "sức khỏe" của doanh nghiệp đang xấu đi, số phá sản giải thể vẫn tăng. Đây thực chất cũng có thể coi là sự thanh lọc nghiệt ngã sẽ diễn ra trên thương trường. Trong thời kỳ này, DN nào có năng lực cạnh tranh yếu, quản trị kém và trang thiết bị lạc hậu sẽ khó có thể tồn tại, dồn nguồn lực cho các DN có năng lực hơn.

Tuy nhiên, có một vấn đề làm nhiều người băn khoăn, đó là trong số các DN giải thể phá sản, ngừng hoạt động có không ít DN vay vốn đang đầu tư thì bị hạn mức tín dụng khống chế.
Do lạm phát tăng cao, từ đầu năm 2011, Chính phủ đã có chủ trương thắt chặt tín dụng. Hạn mức tín dụng cho phép trong năm 2011 tăng không quá 20%. Nhiều DN mặc dù đã được các ngân hàng chấp thuận, phê duyệt cho vay vốn và đã được giải ngân một phần, đang thực hiện dở dang phải dừng lại do ngân hàng đã chạm ngưỡng hạn mức dẫn đến dự án bị ngưng trệ, đình đốn...

Với những DN này, khi không thể tiếp tục vay vốn, dự án dở dang sẽ nằm bất động. Trang thiết bị, máy móc cũng trở thành sắt vụn. Nếu phá sản, giải thể, sẽ có tác động lớn, đó là vốn vay ngân hàng sẽ khó có thể thu hồi.
Bên cạnh đó, điều đáng nói là hiện nay nhiều ngân hàng không dám siết nợ các DN. Tại Hải Phòng, các DN thép đang nợ ngân hàng khoảng 4.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, cho đến giờ ngân hàng cũng không dám làm căng với DN. Vì khi cho vay, công tác thẩm định hiệu quả dự án, thiết bị sản xuất nhập khẩu... có khi không kỹ lưỡng. Do đó, nhiều thiết bị lạc hậu, công suất thấp, tiêu hao lớn được đưa về với giá cao. Khi thị trường gặp khủng hoảng, người cho vay càng không dám thực hiện siết nợ. Vì nếu có làm thì cũng không biết bán dây chuyền ấy cho ai để thu hồi nợ!

Những khoản nợ này sẽ phải chuyển thành nợ xấu. Gánh nặng nợ xấu tăng sẽ liên quan đến sự an toàn của các ngân hàng và là " kẻ thù" của nền kinh tế.


Diễn đàn KTVN

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

Phân tích Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ

Dòng lưu chuyển tiền tệ đặc biệt quan trọng đối với một doanh nghiệp. Nó cho phép doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động của mình, thay thế các tài sản cần thiết, tận dụng các cơ hội của thị trường và chi trả cổ tức cho các cổ đông. Một số chuyên gia còn cho rằng “dòng tiền là vua” (“cash flow is king”).

Bảng lưu chuyển tiền tệ cho biết khả năng tạo tiền, tình hình quản lí các tài sản và trách nhiệm pháp lí ngoài vốn hiện thời, chi tiết các khoản đầu tư vào tài sản sản suất và các khoản đầu tư tài chính của doanh nghiệp. Nó cho phép cả các nhà quản lí cũng như các nhà nghiên cứu trả lời được những vấn đề quan trọng liên quan đến tiền như:

• Liệu doanh nghiệp có đủ tiền để chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn cho nhà cung cấp và những chủ nợ khác mà không phải đi vay không?
• Doanh nghiệp có thể quản lí được các tài khoản phải thu, bảng kiểm kê, …
• Doanh nghiệp có những khoản đầu tư hiệu quả cao không?
• Doanh nghiệp có thể tự tạo ra được dòng tiền tệ để tài trợ cho các khoản đầu tư cần thiết mà không phụ thuộc vào vốn từ bên ngoài không?
• Doanh nghiệp có đang thay đổi cơ cấu nợ không?

Bảng lưu chuyển tiền tệ (SCF) cung cấp thông tin liên quan ba hoạt động chính tạo ra và sử dụng tiền là: hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư.

Bảng lưu chuyển tiền tệ có liên quan mật thiết với bảng CĐKT và báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó cần các dữ liệu từ:

- Bảng CĐKT dùng để thu thập dòng tiền từ tất cả các hoạt động. Để quá trình này được dễ dàng nên tính toán thay đổi từ thời điểm đầu kì đến thời điểm cuối kì của mỗi khoản.

- Một báo cáo kết quả hoạt động SXKD sử dụng ban đầu để thu thập các dòng tiền từ hoạt động SXKD.

- Các chi tiết phụ khác liên quan đến một số tài khoản phản ánh vài loại giao dịch và vấn đề khác nhau. Việc nghiên cứu các tài khoản riêng biệt là cần thiết bởi thường tổng số thay đổi của cân bằng TK trong năm không chỉ ra được bản chất thực của dòng tiền.

I. Phân chia các dòng tiền trong bảng lưu chuyển tiền tệ:

Về cơ bản, bảng lưu chuyển tiền tệ giải thích sự vận động tiền tệ từ cân bằng tiền đầu kì đến mức cân bằng cuối kì (tiền tệ bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền như đầu tư ngắn hạn, các khoản đầu tư có độ thanh khoản cao, thông thường là các khoản đầu tư đáo hạn dưới ba tháng.

Usual Cash Flow Diagram

(Sơ đồ ngân lưu thường kỳ - GiangBLOG)

Các dòng tiền trong bảng lưu chuyển tiền tệ được chia thành 3 loại:

1. Dòng tiền từ hoạt động sản xuất, kinh doanh:

Là các dòng tiền ra và vào trực tiếp liên quan đến thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh được ghi nhận trên bảng thu nhập. Có hai phương pháp trình bày hoạt động sản xuất được sử dụng là:

1.1. Phương pháp trực tiếp: báo cáo các dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh được liệt kê theo từng khoản thu và chi trả:

Dòng tiền vào:
- tiền thu bán hàng
- tiền thu từ các khoản nợ phải thu
- tiền thu từ các khoản thu khác

Dòng tiền ra:
- tiền đã trả cho người bán
- tiền đã trả cho công nhân viên
- tiền đã nộp thuế và các khoản kác cho Nhà nước
- tiền đã trả cho các khoản nợ phải trả khác
- tiền đã trả cho các khoản khác

Chênh lệch giữa dòng tiên vào và dòng tiền ra được gọi là lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh.

1.2. Phương pháp gián tiếp:

Điều chỉnh thu nhập ròng bằng việc giảm thiểu các khoản mục phi tiền tệ để tính toán dòng tiền vào (ra) ròng từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần chú ý giữa thu nhập và dòng tiền có sự khác nhau, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh được ghi nhận tích luỹ, cả doanh thu và chi phí đều được ghi nhận khi có nghiệp vụ phát sinh, không quan tâm đến thời điểm phát sinh dòng tiền.

Hiện nay, các doanh nghiệp hầu hết đều sử dụng phương pháp gían tiếp. Tuy nhiên cần ghi nhớ rằng, hai phương pháp trên là những cách chuyển đổi đơn giản cho kết quả giống nhau.

2. Dòng tiền từ hoạt động đầu tư:

Là các dòng tiền vào ra liên quan đến việc mua và thanh lí các tài sản sản xuất kinh doanh do công ty sử dụng hoặc đầu tư vào các chứng khoán của công ty khác.

Dòng tiền ra phản ánh các khoản đầu tư tiền mặt toàn bộ để có được các tài sản này. dòng tiền vào chỉ được ghi nhận khi nhận được tiền từ việc thanh lí các tài sản đầu tư trước. Các dòng tiền từ hoạt động đầu tư gồm:

Dòng tiền vào:

Tiền thu từ:
- các khoản đầu tư vào đơn vị khác
- lãi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
- bán tài sản cố định

Dòng tiền ra:

Tiền trả cho:
- đầu tư vào các đơn vị khác
- mua tài sản cố định

Chênh lệch giữa dòng tiền ra và vào gọi là lưu chuyển thuần từ hoạt động đầu tư.

3. Dòng tiền từ hoạt động tài chính:

Bao gồm dòng tiền ra và vào liên quan đến các nghiệp vụ tiền tệ với các chủ thể ngoài doanh nghiệp ( từ các chủ sở hữu và chủ nợ ) tài trợ cho doanh nghiệp và các hoạt động của doanh nghiệp. Dòng tiền vào ghi nhận các hoạt động tài chính nhận tiền từ chủ sở hữu vốn và chủ nợ. Dòng tiền ra ngược lại. Các hoạt động đó gồm:

Dòng tiền vào:

Tiền thu:
- do đi vay
- do các chủ sở hữu góp vốn
- từ lãi tiền gửi

Dòng tiền ra:

- tiền đã trả nợ vay
- tiền đã hoàn vốn cho các chủ sở hữu
- tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư vao doanh nghiệp

Số chênh lệch dòng tiền ra và vào gọi là: lưu chuyển thuần từ hoạt động tài chính.

II. Mối liên hệ giữa dòng tiền và các hoạt động sản xuất kinh doanh:

Phần hoạt động tài chính của bảng lưu chuyển tiền tệ tập trung vào khả năng tạo tiền qua hoạt động sản xuất kinh doanh và việc quản lí các tài sản và trách nhiệm pháp lí ngoài vốn hiện tại của doanh nghiệp (hay vốn hoạt động). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là phần quan trọng nhất của bảng bởi vì xét trong thời gian dài, hoạt động sản xuất kinh doanh là nguồn duy nhất tạo ra tiền. Các nhà đầu tư sẽ không đầu tư vào một công ty nếu họ thấy nó không có khả năng chi trả cổ tức cho họ hoặc nó không thể tái đầu tư từ số tiền thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tương tự, các chủ nợ cũng không cho công ty đó vay nợ.

Operating Cash Flow (OCF) Diagram

(Sơ đồ dòng tiền thu từ hoạt động kinh doanh - GiangBLOG)

Để đánh giá mối liên hệ giữa dòng tiền và các hoạt động sản xuất kinh doanh, ta lần lượt xem xét các mối liên hệ sau:

1. Các tài khoản phải thu và lưu chuyển tiền tệ:

Sự thay đổi của các TK phải thu có thể là yếu tố quyết định đến dòng lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh của cty. Theo phương pháp gián tiếp, doanh thu bán hàng tích luỹ thường gồm các khoản doanh thu không phát sinh tiền, nó tạo nên sự thay đổi trong cân bằng của các TK phải thu. Khi doanh thu được ghi nhận, TK phải thu tăng và khi tiền thu về, TK phải thu giảm. Chúng ta có thể đưa ra nguyên tắc sau:

Khi có một sự giảm trong TK phải thu, lượng tiền thu từ khách hàng luôn lớn hơn doanh thu tích luỹ, do vậy, số giảm phải được tính vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Khi có một sự tăng của TK phải thu, lượng tiền thu từ khách hàng luôn nhỏ hơn doanh thu tích luỹ, do vậy, số tăng phải ghi giảm trừ vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Ví dụ: bảng cân đối kế toán: TK phải thu có SDDK: 70 triệu, SDCK: 105tr -> số tăng trong kì: 35tr, lượng tiền thu được ít hơn doanh thu. Do đó để phản ánh lượng tiền vào ít hơn, lượng tăng phải được trừ vào lợi nhuận kinh doanh để chuyển lợi nhuận sang dòng tiền từ hoạt động kinh doanh.

2. Hàng tồn kho và lưu chuyển tiền tệ:

Sự thay đổi của hàng tồn kho cũng là một yếu tố chính ảnh hưởng đến lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh chi phí mua hàng trong thời kì, trong khi đó SFC phản ánh số tiền trả cho người cung cấp trong cùng kì. Chi phí này có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn lượng tiền trả. Do hầu hết hàng hoá mua theo phương pháp mua chịu, để cân bằng chi phí mua hàng với số tiền trả cho nhà cung cấp đòi hỏi việc xem xét những thay đôỉ trong cả TK hàng hoá và TK phải trả. Cách đơn giản nhất để ghi nhận ảnh hưởng của những thay đổi hàng tồn kho là khi mua hàng (lượng hàng tồn kho tăng cuối cùng dẫn đến giảm lượng tiền và khi bán hàng dẫn đến giảm hàng tồn kho và tăng lượng tiền. Tương tự, khi vay của nhà cung cấp dẫn đến tăng lượng tiền phải trả, tăng tiền và khi trả, giảm khoản phải trả, giảm tiền. Một sự tăng hoặc khoản phải trả phải được ghi giảm hoặc ghi thêm vào dòng lưu chuyển tiền tệ.

3. Chi phí trả trước và dòng lưu chuyển tiền tệ:

Theo phương pháp kế toán ghi tích luỹ, tổng số chi phí phải trả có thể khác với dòng tiền liên quan đến chi phí trả trước. Một số chi phí được thanh toán trước khi nó được ghi nhận (VD: tiền thuê trả trước). Khi thực hiện thanh toán, cân bằng TK chi phí trả trước tăng, khi chi phí được ghi nhận, chi phí trả trước giảm.

Khi có một sự giảm trong TK chi phí trả trước hoặc TK tài sản sản xuất kinh doanh, số tiền chi phí trả trước luôn nhỏ hơn chi phí trả đúng hạn, do đó, khoản giảm phải được ghi thêm vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nó phải ghi trừ.

Chú ý: một sự tăng trong TK hàng hoá không dự tính trước có thể là một nguyên nhân khác làm kết quả kinh doanh vượt quá tốc độ dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự gia tăng hàng hoá có thể là một dấu hiệu cho thấy lượng tăng doanh thu theo kế hoạch không được thực hiện.

4. Mối liên hệ giữa dòng tiền và các tài sản hiện tại khác và các tài sản khác:

Các tài sản hiện tại khác luôn gồm những khoản hoạt động như lãi suất phải thu. Những tài sản khác (không phải tài sản hiện tại) có thể hoặc không thể gồm những khoản hoạt động như những khoản phải thu dài hạn của khách hàng.
Tương tự với các khoản phải thu, khi các tài khoản này phản ánh một sự tăng ròng, số tiền thu được luôn nhỏ hơn doanh thu tích luỹ, khoản giảm được ghi trừ vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, khoản thiếu hụt phải ghi thêm.
Với những tài sản gồm những tài sản không hoạt động như trang thiết bị thanh lí, sự thay đổi của nó không được coi thuộc khoản dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà nó ảnh hưởng đến dòng tiền từ hoạt động đầu tư.

5. Mối quan hệ giữa dòng tiền và các tài khoản phải trả:

Như đã nói trong phần trước, hầu hết hàng hoá đều được mua chịu. Do đó, khi việc mua hàng được ghi nhận, khoản phải trả tăng và khi trả tiền, khoản phải trả giảm. Khoản phải trả bằng lượng tiền công ty vay từ nhà cung cấp qua việc mua hàng.
Khi có sự tăng trong tài khoản phải trả, số tiền trả cho nhà cung cấp luôn nhỏ hơn giá trị số hàng mua trên tài khoản; do đó khoản tăng phải được cộng vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, và ngược lại.

6. Mối liên hệ giữa chi phí tích luỹ và dòng tiền:

Đối với một số chi phí được trả sau khi chúng được ghi nhận ( như chi phí tiền lương tích luỹ), khi chi phí được ghi nhận, cân bằng trong chi phí trách nhiệm pháp lý tích luỹ tăng, khi thanh toán, các chi phí này giảm.

Khi có sự tăng ròng trong khoản chi phí phải trả trong kì, số tiền trả cho chi phí luôn nhỏ hơn chi phí được ghi nhận; do đó, khoản tăng phải được ghi thêm vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, khoản giảm được ghi trừ.
So sánh thu nhập ròng với dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh

Để đánh giá sự phù hợp giữa thu nhập ròng và dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh

Chất lượng tỉ lệ thu nhập = (Dòng tiền từ hoạt động SXKD / Thu nhập ròng)

Chỉ số này cho biết tỉ lệ thu nhập phát sinh từ tiền sau đó được sử dụng cho các hoạt động đầu tư mới hoặc trả nợ tài chính. Khi tỉ lệ này khác 1, cần phải tìm ra những nguồn gây ra sự khác nhau đó, liệu tỉ lệ này có thay đổi theo thời gian và nguyên nhân của sự thay đổi, những sự biến động của các khoản phải thu, hàng hoá và các khoản phải trả là bình thường không và có lời giải thích hợp lí cho những thay đổi này không.

i. Lãi hoặc lỗ từ việc bán tài sản, đất đai nhà xưởng và thiết bị: tổng số tiền thu được từ việc bán tài sản, nhà xưởng, đất đai, thiết bị nằm trong phần dòng tiền từ hoạt động đầu tư. Do lãi hoặc lỗ nằm trong thu nhập ròng để tránh tính toán ảnh hưởng của phần lãi lỗ này hai lần, cần phải loại bỏ khỏi phần dòng tiền từ hoạt động SXKD bằng việc trừ lãi hoặc cộng thêm lỗ.

ii. Thuế thu nhập thu sau: một sự tăng trách nhiệm pháp lý thuế đi kèm với một chi phí trong thời kì hiện tại. Bởi vì một khoản thuế tăng sẽ không dẫn đếnmột dòng tiền ra vào thời kì hiện tại, nó được cộng vào phần lãi lỗ trên bảng lưu chuyển tiền tệ. Các khoản thuế sẽ được cộng dồn vào và trả vào một thời điểm trong tương lai, tạo nên một dòng tiền ra. Khi đó số trách nhiệm pháp lí ngoài vốn giảm phải được trừ vào lãi lỗ trên bảng lưu chuyển tiền tệ .

iii. Thu nhập về vốn và những khoản lỗ đầu tư.

iv. Các khoản giảm trừ và dòng tiền.

Các khoản chi phí giảm trừ thường được gọi là chi phí phi tiền bởi nó không trực tiếp ảnh hưởng đến dòng tiền. Dòng tiền ra liên quan đến các khoản giảm trừ xảy ra khi có yêu cầu giảm tài sản liên quan. Vào mỗi thời kì ghi nhận khoản giảm trừ, không xảy ra việc thanh toán tiền. Hầu hết các chi phí khác đều gây ra dòng tiền ra. Ví dụ: chi phí lương. Một vài người nhầm lẫn rằng “giảm trừ sinh ra tiền” do họ thấy các khoản giảm trừ được cộng thêm vào phần dòng tiền từ hoạt động SXKD của bảng lưu chuyển tiền tệ. Khoản giảm trừ không phải là nguồn gốc của tiền, chỉ khi nào hàng hoá hoặc dịch vụ được mua hoặc bán thì nó mới phát sinh tiền. Một doanh nghiệp với một lượng giá trị chi phí giảm trừ lớn không tạo ra một lượng tiền lớn hơn so với một doanh nghiệp có chi phí giảm trừ nhỏ hơn (giả sử các khoản tạo dòng tiền khác giống nhau). Các khoản giảm trừ làm giảm lượng tiền phát sinh của doanh nghiệp bởi vì nó là chi phí phi tiền do đó trên bảng lưu chuyển tiền tệ chi phí giảm trừ được cộng vào thu nhập để tính dòng tiền từ hoạt động SXKD.

Đối với thuế: mặc dù các khoản giảm trừ là chi phí phi tiền nhưng thông qua thuế nó có ảnh hưởng đến dòng tiền. Các khoản giảm trừ là các chi phí có thể ảnh hưởng đến thuế thu nhập. Chi phí giảm trừ càng lớn thì thuế TN càng thấp. Do thuế được thu bằng tiền nên một sự giảm thuế dẫn đến tăng dòng tiền ra của doanh nghiệp.

III. Dòng tiền từ hoạt động đầu tư:

Phần này liên quan đến các tài khoản mua và thanh lí các công cụ sản xuất của doanh nghiệp, các khoản đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp khác và các khoản cho khách hàng vay. Các tài khoản trên bảng cân đối kế toán bao gồm các khoản đầu tư ngắn hạn và dài hạn và quyền sở hữu, đất đai nhà xưởng, thiết bị. Các mối quan hệ giữa các TK trên bảng cân đối kế toán và ảnh hưởng lên dòng tiền thường gặp là:

+ Quyền sở hữu đất đai, trang thiết bị : Mua(dòng tiền ra) và Bán(dòng tiền vào).

+ Các khoản đầu tư ngắn hạn và dài hạn: Mua(dòng tiền ra) và Bán(dòng tiền vào).

Phần dòng tiền từ các hoạt động đầu tư cho thấy thông tin quan trọng về chiến lược của doanh nghiệp. Với nhiều doanh nghiệp, tỉ lệ tài sản hữu hình có thể cho thấy đó là các khoản đầu tư ít rủi ro. Khi một doanh nghiệp trong ngành công nghiệp xây dựng công suất quá mức cần thiết để đáp ứng nhu cầu khách hàng thì chi phí để duy trì và tài trợ cho dự án đó có thể đẩy doanh nghiệp đến phá sản.

Nhiều nhà nghiên cứu sử dụng tỉ lệ nguồn vốn thu được để đánh giá khả năng tài trợ vốn để thực hiện dự án và mua thiết bị cho SXKD

Tỷ lệ nguồn vốn thu: dòng tiền từ hoạt động SXKD/ tiền chi cho dự án và trang thiết bị

IV. Dòng tiền từ hoạt động tài chính:

Phần này phản ánh những thay đổi trong hai khoản trách nhiệm pháp lí ngoài vốn, những chứng từ phải trả (hay các khoản nợ dài hạn), các khoản nợ dài hạn đến hạn trả cũng như những thay đổi của các tài khoản vốn cổ đông và trách nhiệm pháp lí dài hạn. Những TK trong bảng cân đối kế toán này liên quan đến việc phát hành và thanh toán ccác món nợ và cổ phiếu và chi trả các lợi tức. Các mối quan hệ chủ yếu bao gồm các mối quan hệ sau:

+ Vay nợ ngắn hạn hay dài hạn ngân hàng : Giấy nợ nhận tiền(dòng tiền vào) và thanh toán nợ(dòng tiền ra).

+ Phát hành cổ phần : phát hành cổ phiếu(dòng tiền ra) và mua lại cổ phiếu bằng tiền(dòng tiền vào).

Các hoạt động tài chính liên quan đến phát sinh vốn từ các chủ nợ hoặc chủ sở hữu:

- Phát sinh từ phát hành khoản nợ ngắn và dài hạn: nhận tiền từ việc đi vay NH hoặc các tổ chức tín dụng khác hoặc phát hành trái phiếu ra công cộng. Nếu các khoản nợ được phát hành để nhận các tài sản khác không phải là tiền thì không được coi thuộc phần dòng tiền từ hoạt động tài chính của bảng lưu chuyển tiền tệ.

- Việc chỉ trả gốc các khoản nợ ngắn và dài hạn: các dòng tiền ra liên quan đến các khoản nợ gồm khoản tiền trả gốc thường kì cũng như việc trả nợ trước thời hạn. Phần tiền trả nợ gốc được coi là thuộc dòng tiền từ hoạt động tài chính, phần tiền trả lãi là dòng tiền từ hoạt động SXKD.

- Phát sinh từ phát hành cổ phiếu: liên quan đến các khoản tiền nhận từ việc bán các cổ phiếu thông thường cho nhà đầu tư. nó không gồm các khoản cổ phiếu phát hành chi trả cho các món khác không phải tiền như phát hành cổ phiếu trả lương công nhân.

- Mua cổ phiếu hoặc bán cổ phiếu: dòng tiền ra bao gồm khoản trả bằng tiền để mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp từ cổ đông.

- Tiền trả cổ tức: là khoản tiền trả cổ tức cho các cổ đông trong năm. Nhiều người phân vân tại sao khoản tiền lãi trả cho chủ nợ thuộc dòng tiền từ hoạt động SXKD còn tiền trả cổ tức lại thuộc dòng tiền từ hoạt động tài chính. Nhớ rằng lãi suất được ghi trên báo cáo kết quả kinh doanh trực tiếp liên quan đến thu nhập (là hoạt động SXKD). Còn cổ tức thì không bởi chúng là sự phân phối thu nhập.

Việc phát triển lâu dài của doanh nghiệp thường được tài trợ từ ba nguồn chính: tiền từ hoạt động SXKD của chính doanh nghiệp, từ phát hành cổ phiếu và từ vay mượn dài hạn. Các nguồn lực tài chính được sử dụng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến độ rủi ro và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Bảng lưu chuyển tiền tệ cho thấy ban quản lí đã lựa chọn phương cchs nào để tài trợ sự phát triển của doanh nghiệp. Các thông tin trên có thể giúp đánh giá cấu trúc vốn và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp.

Như vậy việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ giúp bạn kiểm tra tính trung thực của tất cả các thông tin rút ra từ việc đánh giá các tỷ suất và vốn lưu động, về tình trạng tiền mặt, khả năng thanh toán của công ty.


*

* *

Bắt đầu từ các đặc tính cơ bản của Cash Flow. Với dân phân tích tài chính thì chắc chắn phải biết câu nói “Cash is King”. Cá nhân tôi thích cách so sánh CF với hệ tuần hoàn (máu, tim, mạch máu..) của "một cơ thể sống" hơn vì nó chỉ ra chức năng quan trọng và cơ bản nhất của CF.

Báo cáo LCTT được lập theo 02 phương pháp: Gián tiếp và Trực tiếp. LCTT không có nghĩa đơn giản chỉ là dòng vào/ra mà chúng ta nên xem xét nó ở 02 phương diện : nội sinh và ngoại lai. Tôi cho rằng đây là lý do chấp nhận được với những người phân tích đi tìm lời giải thích cho ý nghĩa của 2 phương pháp lập BC LCTT trên.

Phương pháp trực tiếp bắt đầu từ doanh thu, tức là gom tất cả về một mối rồi bắt đầu chia nhỏ, phân phát CF về vị trí thích hợp. Đây là cách làm ưa thích của các debt-holder (trong đó có ngân hàng).

Phương pháp gián tiếp bắt đầu từ EBIT với quan điểm EBIT tạo ra sử dụng để chi trả cho phần tài sản “tăng” thêm và phần nguồn vốn “giảm” đi. Dòng tiền bắt đầu từ EBIT, tương tác với các khoản chênh lệch của TS và NV. Equity holder thích thú hơn với phương pháp tiếp cận này.

Với hai nhân xét bác nêu ở trên, ý kiến của tôi là :

I.Năng lực phát triển những luồng tiền tích cực trong tương lai

1. Xem xét nội dung của các dòng tiền chính yếu :

Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, đầu tư, tài chính để phân nhóm nó vào từng loại máu. Trong đó, CF từ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phải là trung tâm. Đồng thời phải xem xét nó với chức năng bổ sung cho hạn chế của lợi nhuận : Lợi nhuận là bút toán.

Để tạo ra lợi nhuận thật dễ dàng đối với một người làm kế toán nhưng để tạo ra tiền thì khó khăn hơn. Lợi nhuận thường bị “thao tác” bởi các nhà quản trị trong công ty. Việc thao tác với lợi nhuận là “sự can thiệp có mục đích bởi việc quản lý trong tiến trình xác định lợi nhuận, thường là để thỏa mãn các mục đích cá nhân”. Quản lý lợi nhuận nhằm tô điểm thêm các kỳ vọng của thị trường, nó không tạo ra thêm giá trị của dòng tiền. Có thể thấy, có nhiều động cơ “thao tác” lợi nhuận như:

(1). Động cơ vì các hợp đồng kinh doanh. Nhiều hợp đồng kinh doanh sử dụng các số liệu của kế toán chẳng hạn như các hợp đồng dự thầu, các hợp đồng tiền lương, thưởng của ban giám đốc và hội đồng quản trị được tính trên những số liệu kế toán này. Các giao kèo tiền lương, thưởng được xác lập trong một giới hạn dựa trên mức lợi nhuận mà công ty đạt được. Nếu không quản lý lợi nhuận trong các giới hạn này sẽ là một tổn thất lớn trong thu nhập của các nhà quản trị. Mặt khác các điều khoản nợ thường dựa trên những số liệu kế toán như thu nhập. Những xung đột của các điều khoản nợ sẽ là tốn kém cho các nhà quản trị công ty, chính vì vậy họ phải thao tác với lợi nhuận nhằm giảm đi những tốn kém đó.

(2) Động cơ làm giá chứng khoán. Một động cơ khác tác động tiềm tàng đến giá chứng khoán. Chẳng hạn, một nhà quản trị có thể tăng lợi nhuận để tạm thời đẩy giá chứng khoán lên cho những mục đích “sang sạp” của mình hay vì mục đích phát hành chứng khoán…

2. Xem xét cơ cấu dòng tiền với từng loại hình và giai đoạn phát triển của doanh nghiệp.
Báo cáo dòng tiền cung cấp nguồn gốc dòng tiền của một doanh nghiệp, dòng tiền của một doanh nghiệp là cái có thực và là một khái niệm dễ hiểu, chúng không bị tác động bởi các nguyên tắc của hạch toán kế toán. Tuy nhiên, dòng tiền không thể đo lường giá trị tăng thêm trong ngắn hạn.

Dòng tiền sẽ chịu tác động rất nhiều đối với các giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển mà nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp cũng khác nhau, khả năng tạo ra dòng tiền từ hoạt động kinh doanh cũng khác nhau…, đối với ngành nghề mà doanh nghiệp đó hoạt động cũng như triển vọng tăng trưởng của doanh nghiệp đó trong tương lai…

Chính vì vậy, một số chỉ tiêu tài chính khi phân tích báo cáo dòng tiền của doanh nghiệp thường được đề cập đến là dòng tiền hoạt động, dòng tiền tự do, sự kết hợp giữa các dòng tiền trong doanh nghiệp… nhìn vào báo cáo dòng tiền nhà đầu tư có thể đánh giá được chất lượng của thu nhập mà công ty tạo ra. Nó sẽ giúp cho nhà đầu tư loại bỏ những hoài nghi về việc sử dụng các phương pháp kế toán để tạo ra lợi nhuận.

Ví dụ về cơ bản :

- CF Kinh doanh âm, đầu tư âm, tài chính dương : doanh nghiệp mới, đang phát triển nhanh, hoạt động chưa có lãi, khoản phải thu và hàng tồn kho cao. Để duy trì sự pháttriển phải đầu tư tài sản và phải huy động vốn từ bên ngoài.

- Kinh doanh dương, đầu tư âm, tài chính dương: vẫn là doanh nghiệp đang phát triển, hoạt động có hiệu quả nhưng tốc độ chậm lại. Vẫn còn phải đầu tư và cần đến nguồn huy động vốn.

- Kinh doanh dương, đầu tư âm, tài chính âm : doanh nghiệp trưởng thành, ổn định. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh lành mạnh, thu về nhiều hơn nhu cầu đầu tư. Và công ty đã dùng nó chi trả nợ, chia cổ tức

Ngoài ra, loại hình doanh nghiệp cũng ảnh hưởng rất nhiều đến các phương án phân tích dòng tiền.

3. Phân tích cách DN sử dụng dòng tiền.

Muốn biết bản chất của một người đàn ông, hãy cho anh ta quyền lực và tiền (theo tôi thêm cả girl xinh đẹp nữa ). Cách anh ta sử dụng chúng theo thời gian là đáp án chính xác nhất.
Sơ bộ có thể tạm dùng bảng sau :

A. Nguồn cung cấp tiền
I – Nguồn nội bộ
1. Từ các hoạt động SXKD
2. Từ tiền mặt dữ trữ

II – Nguồn bên ngoài
1. Từ các hoạt đồng TC

III. Nguồn khác
1. Hoạt động đầu tư

B. Sử dụng
1.Cho các hoạt động SXKD
2. Cho các hoạt động đầu tư
3. Cho các hoạt động tài chính
4. Dữ trữ tiền mặt

C. Nhận xét …………

và nếu cẩn thận hơn nên xét anh ta kiếm tiền bằng cách nào



4. Phân tích tương quan với cơ cấu cân bằng vốn/tài sản.
Đơn giản nhất là chúng ta chỉ chia vốn/tài sản thành Ngắn hạn và Dài hạn. Về cơ bản, tổng vốn dài hạn phải lớn hơn tổng tài sản ngắn hạn để đảm bảo một cơ cấu Vốn/tài sản bền vững và chủ động.


II. Năng lực thực hiện các nghĩa vụ và trả cổ tức cho các cổ đông

1. Năng lực thực hiện các nghĩa vụ.
Báo cáo thu nhập được lập theo nguyên tắc thực tế phát sinh chứ không phải theo tiền mặt mà các nghĩa vụ Công ty phải thực hiện đại đa số lại bằng tiền mặt . Nợ máu phải trả bằng máu . Có thể đánh giá qua các chỉ tiêu sau :

Tỷ lệ ngân lưu từ hoạt động SXKD đối với nợ ngắn hạn : khắc phục nhược điểm của khả năng thanh toán hiện hành (mang tính thời điểm). Theo khuyến nghị của MorningStar một công ty lành mạnh về tài chính thường có tỷ lệ này trên 40%.

Tỷ lệ ngân lưu từ SXKD đối với tổng nợ : lớn hơn 20%

2. Năng lực trả cổ tức cho các cổ đông

Tôi không đánh giá cao chức năng này của dòng tiền. Điều kiện tiên quyết để có cổ tức phải là lợi nhuận chứ không phải cash flow (??? Hình như ngược lại mới đúng nhỉ???). Hơn nữa, nếu doanh nghiệp đang trong giai đoạn phát triển đặc thù và Hội đồng cổ đông quyết định tái đầu tư (như kiểu thưởng cổ phiếu, phát hành thêm …) thì CF không còn mấy ý nghĩa. Liên quan đến vấn đề cổ tức, CF thể hiện tốt hơn vai trò của nó trong Chính sách cổ tức của DN chứ không phải khả năng trả cổ tức của DN.


Tổng hợp

GiangBLOG


Girls Generation - Korean