Hiển thị các bài đăng có nhãn cạnh tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cạnh tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

Năm bết bát của các “tiểu gia” di động

EVN Telecom về với Viettel sau thời gian dài kinh doanh thua lỗ; S-Fone bên bờ phá sản; Beeline cũng chật vật khi đối tác ngoại rút vốn; trong khi Vietnamobile hoạt động khá mờ nhạt suốt cả năm.

Cuối năm 2011, Viettel được Chính phủ giao nhiệm vụ tiếp nhận mạng di động EVN Telecom, bỏ qua lời đề nghị mua lại một phần doanh nghiệp này của hai đơn vị khác là Vietnamobile và VTC. Có nhiều khác biệt về chính sách cũng như cách vận hành giữa hai doanh nghiệp, nhưng việc sáp nhập được tiến hành khá nhanh chóng. Từ 28/12/2011, Viettel đã thực hiện hỗ trợ khách hàng của EVN Telecom chuyển mạng.

Sau gần một năm, đến ngày 1/12/2012, Viettel thông báo ngừng hỗ trợ chuyển đổi thuê bao giữa hai mạng. Từ thời điểm này, các sim EVN Telecom chưa đổi sang Viettel sẽ bị ngừng hoạt động, số thuê bao đi kèm sẽ bị thu hồi về kho và tái sử dụng. Đây có thể xem là thời điểm chấm dứt hoàn toàn cho cái tên EVN Telecom trên thị trường viễn thông Việt Nam.

Sự ra đi của EVN Telecom khiến S-Fone càng thêm đơn độc trên nền mạng CDMA tại Việt Nam.

Ảnh
S-Fone là điển hình khó khăn của viễn thông di động Việt Nam trong năm 2012. Ảnh: Anh Quân.

S-Fone đặt chân vào Việt Nam từ tháng 7/2003, phá vỡ thế độc quyền viễn thông di động lúc bấy giờ, đồng thời là nhà cung cấp dịch vụ 3G đầu tiên. S-Fone cũng là người đi tiên phong phát triển nền mạng CDMA tại Việt Nam. Sau 9 năm hoạt động, năm 2012 là quãng thời gian đen tối nhất của hãng.

Kinh doanh không như mong đợi khiến đối tác SK Telecom của Hàn Quốc rút vốn, SPT (là đối tác phía Việt Nam) một mình cáng đáng mạng S-Fone. Thiếu vốn đầu tư, thuê bao ít ỏi, chất lượng mạng không tốt khiến S-Fone ngày càng đi xuống. Tháng 7/2012, hàng loạt nhân viên của mạng này bị mất việc với lí do công ty chuyển mô hình lao động.

Những ngày cuối năm, nhân viên S-Fone chi nhánh miền Bắc đã đến trụ sở công ty tại số 11 Trần Hưng Đạo (Hà Nội) để tìm gặp lãnh đạo nhằm giải quyết các vấn đề về nợ lương và trợ cấp thời gian dài. Tuy nhiên, việc cũng chẳng được giải quyết triệt để và đại diện S-Fone miền Bắc phải thừa nhận công ty mất khả năng chi trả, văn phòng bị niêm phong do thiếu tiền nhà, điện nước. Trạm phát sóng duy nhất còn sót lại ở Hà Nội cũng đã bị ngắt điện.

Beeline cũng là một ví dụ cho thất bại của các mạng di động nhỏ trong năm. Đây là thương hiệu chung của Tập đoàn VimpelCom (của Nga) và Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Truyền dẫn và dịch vụ hạ tầng Gtel. Mặc dù có giá cước tốt, Beeline vẫn khó phát triển thuê bao, yếu thế trong cạnh tranh. Sau 3 năm hoạt động, doanh nghiệp Nga bán lại toàn bộ cổ phần và vốn đầu tư trị giá 500 triệu USD cho đối tác Việt với giá chỉ 45 triệu USD.

Không giống như S-Fone "đuối sức" sau khi SK Telecom bỏ đi, Beeline vắng VimpelCom vẫn tìm cách đi tiếp. Tháng 9/2012, Gtel Mobile chính thức bỏ thương hiệu Beeline với biểu tượng chú gà và hai màu vàng, đen, thay vào đó là tên nhà mạng Gmobile mới, thừa kế những gì mà thương hiệu cũ có được.

Tự thay đổi chính mình, và vẫn trung thành với hướng đi tung ra các gói cước khuyến mại "khủng", nhưng theo Gmobile vẫn đang gặp khó vì thị phần đang nằm trong tay 3 "ông lớn" Viettel, Vinaphone và Mobifone. Hiện Gmobile vẫn phải đối mặt với nhiều sức ép từ vốn đầu tư và thị trường.

Thị trường viễn thông năm qua cho thấy cục diện không có sự thay đổi nào đáng kể so với trước, các doanh nghiệp lớn vẫn phát triển ổn định với doanh số lên tới hàng trăm nghìn tỉ đồng. Trong khi đó, những đơn vị nhỏ phải vất vả "vượt sóng", cũng là một phần tác động của tình hình kinh tế chung.

Ảnh
Số liệu được Bộ Thông tin và Truyền thông công bố trong Sách trắng 2012 (tính trên doanh thu của doanh nghiệp).

Lãnh đạo Cục Viễn thông nhận định áp lực cạnh tranh ngày một lớn buộc một số doanh nghiệp phải rời bỏ thị trường. Nhưng Cục vẫn bảo lưu quan điểm cần duy trì ít nhất 3 doanh nghiệp tương đương trên thị trường, những doanh nghiệp cạnh tranh được sẽ tồn tại. Theo Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia đến năm 2020 được Chính phủ phê duyệt, mục tiêu đề ra là phát triển bền vững thị trường viễn thông, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Hiện có 6 mạng di động tại Việt Nam, trong đó có 3 mạng nhỏ là Vietnamobile, Gmobile và S-Fone, nhưng xem như chỉ còn 2 mạng nhỏ đang phải cạnh tranh với 3 mạng lớn Viettel, Vinaphone và Mobifone. Thuê bao S-Fone đã mất liên lạc nhiều tháng nay, và nếu không có "điều kì diệu" xảy ra, rất có thể S-Fone phải rút lui khỏi thị trường trong năm 2013, đánh dấu sự ra đi của nhà mạng CDMA đầu tiên và cuối cùng của Việt Nam hiện nay.

Theo Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 12/2012, cả nước có khoảng 121,7 triệu thuê bao di động. Báo cáo mới nhất của Viettel cho biết nhà mạng có gần 58,9 triệu thuê bao. Hai mạng Vinaphone và Mobifone ước tính có gần 70 triệu thuê bao. Hai mạng Gmobile và Vietnamobile có hơn 10 triệu thuê bao.

Tốc độ tăng trưởng của 3 mạng lớn 6 tháng đầu năm 2012 chỉ đạt 1%, trong khi đó mạng nhỏ Gmobile tăng trưởng 1,42% (theo báo cáo của Cục Viễn thông).

Theo VnExpress

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Viễn thông chỉ cần giữ Viettel là DN 100% vốn nhà nước

Theo ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ BCVT, để thị trường viễn thông thực sự cạnh tranh, 2 doanh nghiệp nhà nước lớn trong thị trường viễn thông là VNPT và Viettel, có thể giữ lại Viettel 100% vốn nhà nước, còn lại có nên cổ phần hóa kể cả VNPT.

Lo ngại quay lại độc quyền trong viễn thông?

Tại Lễ công bố các sự kiện ICT tiêu biểu 2012 và tọa đàm triển vọng viễn thông 2013 ngày 27/12, Thứ trưởng Bộ TT&TT Lê Nam Thắng cho biết, mặc dù thị trường viễn thông Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường cạnh tranh nhất trong khu vực với chất lượng ngày càng cao, giá cước giảm. Khả năng truy nhập của người dân đến các dịch vụ viễn thông cũng rất thuận lợi kể cả ở vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, thị trường viễn thông cũng bộc lộ nhiều yếu tố thể hiện sự không bền vững như Tập đoàn Vimpelcom rút khỏi Việt Nam bằng việc bán rẻ cổ phần trong mạng GTel sau khi tập đoàn này không thấy có cơ hội phát triển hay sự lao dốc không phanh của S-Fone, "Điều đó thể hiện môi trường CNTT-Truyền thông ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém", Thứ trưởng Lê Nam Thắng nhấn mạnh.

Ảnh

Theo Thứ Trưởng Lê Nam Thắng, dù thị trường viễn thông có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối. Do quản lí của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế nên hiệu quả hoạt động của thị trường chưa cao, dẫn đến việc một số doanh nghiệp buộc phải rút lui khỏi thị trường như EVN Telecom, Vimpelcom...

Vì thế, trong hơn 10 năm qua, thị trường viễn thông chưa huy động được nguồn lực xã hội. Cách duy nhất để huy động nguồn lực của xã hội là phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhà nước sẽ không nắm những doanh nghiệp không quan trọng với an ninh quốc gia, lợi ích công cộng mà để các thành phần kinh tế khác tham gia.

Cùng quan điểm, ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ BCVT (nay là Bộ TT&TT) cho biết, thị trường viễn thông Việt Nam còn nhiều vấn đề phải điều chỉnh như có đến 95% hoặc thậm chí 99% doanh nghiệp viễn thông là của Nhà nước. "Cách đây 2 năm, tôi đã nói cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông giống như anh em trong 1 gia đình, cha mẹ cho ra ở riêng nên chưa có cạnh tranh thực sự. Nhưng đến nay, việc này chưa được xử lý", ông Trực cho biết thêm.

Ông Trương Gia Bình, Tổng Giám đốc FPT lại lo lắng trước nguy cơ trở lại độc quyền của lĩnh vực viễn thông khi trong giai đoạn kinh tế khó khăn thì giá cho thuê kênh của một số doanh nghiệp tăng 2 - 3 lần so với mức giá cũ... "Doanh nghiệp nào cũng vì lợi ích của mình mà phải cạnh tranh nhưng chúng ta phải quản lí làm sao để đất nước và người dân có lợi nhất", ông Bình khẳng định.

Vì thế, ông Bình đồng tình với quy định "mỗi dịch vụ viễn thông quan trọng như di động, Internet băng rộng, cố định đường dài và quốc tế phải có ít 3 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ để đảm bảo cạnh tranh" trong Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia đến năm 2020.

Thị trường sẽ chỉ còn 3-4 doanh nghiệp

Theo Thứ trưởng Lê Nam Thắng, Bộ TT&TT đề xuất nhiều phương án để bảo đảm thị trường không đổ vỡ. Cụ thể, nếu doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, Bộ TT&TT sẽ tiến hành rút giấy phép của doanh nghiệp đó như trường hợp của Đông Dương Telecom - sau khi rút giấy phép, doanh nghiệp vẫn tồn tại nhưng kinh doanh ở lĩnh vực khác chứ không hoàn toàn xóa bỏ; hay cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hình thức sát nhập ví dụ EVN Telecom vào Viettel để doanh nghiệp yếu kém không tham gia thị trường, chỉ giữ lại những doanh nghiệp thực sự có năng lực hoạt động. "Một phương án khác đảm bảo thị trưởng không đổ vỡ là cổ phẩn hóa doanh nghiệp để từ đó hình thành thị trường cạnh tranh có ít nhất 3 doanh nghiệp trở lên", Thứ trưởng Lê Nam Thắng khẳng định.

Do định hướng chính sách chung của Đảng và Nhà nước là cơ cấu lại các doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước nên xu hướng rút ra khỏi thị trường của một số doanh nghiệp viễn thông cũng là một dấu hiệu tốt, nhằm cơ cấu lại thị trường theo hướng lành mạnh hơn, hiệu quả hơn. Vì vậy, Bộ TT&TT sẽ tạo nhiều giải pháp, tùy từng trường hợp cụ thể để quyết định rút giấy phép, sát nhập hoặc phá sản, để cuối cùng đạt được thị trường đúng như Chính phủ quy định, hình thành một số doanh nghiệp lớn làm chủ thị trường trong nước và vươn ra quốc tế.

Ông Trực cho biết: "Tại thời điểm 2008 - 2009, khi phát biểu tại Quốc hội, tôi đã khẳng định việc quá nhiều doanh nghiệp được cấp phép là không đúng vì đều là doanh nghiệp nhà nước nên sẽ gây lãng phí. Đối với các doanh nghiệp phá sản, nếu là doanh nghiệp lớn thì Nhà nước phải can thiệp giống như trong lĩnh vực ngân hàng. Còn với các doanh nghiệp nhỏ, cơ quan quản lí không nên can thiệp vì đó là việc của doanh nghiệp. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn lo cứu doanh nghiệp chỉ vì đó là doanh nghiệp của nhà nước nên cấu trúc thị trường chưa thực sự cạnh tranh". "Cá nhân tôi cho rằng, với 2 doanh nghiệp lớn là VNPT và Viettel, chúng ta có thể giữ lại một doanh nghiệp nhà nước (Viettel) và cổ phần hóa doanh nghiệp còn lại (VNPT). Doanh nghiệp thứ 3-4 có thể là các doanh nghiệp tư nhân, nước ngoài. Khi đó, thị trường viễn thông mới thực sự cạnh tranh", ông Trực nói.

Theo ICTNews

Truyền hình trả tiền sắp “nổi sóng” vì DN viễn thông?

Dù vẫn đang vấp phải những kiến trái chiều, thế nhưng nhiều quan điểm cho rằng nếu không cho doanh nghiệp viễn thông nhảy vào lĩnh vực truyền hình trả tiền, thì rất có thể thực tế sẽ kéo theo sự tốn kém cho xã hội, chậm phát triển thị trường.

Ảnh

Truyền hình trả tiền sẽ cạnh tranh quyết liệt

Tại Việt Nam, thị trường truyền hình trả tiền hiện có gần 50 thương hiệu đang tham gia cung cấp dịch vụ như Truyền hình cáp Hà Nội (HCaTV), Truyền hình kĩ thuật số Việt Nam VCTC, HTVC, VSTV (K+), SCTV… với khoảng 4,5 triệu thuê bao (vệ tinh, IPTV, truyền hình cáp...) chủ yếu tập trung tại khu vực đô thị.

Đáng chú ý, năm 2012, một số tên tuổi như VNPT, FPT Telecom, AVG (Truyền hình An Viên) và Viettel đệ đơn lên Bộ TT&TT xin cấp phép để sớm nhảy vào lĩnh vực này.

Động thái nói trên được thị trường kì vọng là với sự góp mặt của các doanh nghiệp viễn thông, truyền hình trả tiền tại Việt Nam sẽ bùng nổ, đồng thời đi theo chiều hướng có lợi cho người dùng vì thúc đẩy cạnh tranh mạnh hơn.

Trước thực tế này, tại Tọa đàm Triển vọng viễn thông 2013 diễn ra ngày 27/12, Câu lạc bộ Nhà báo CNTT-TT Việt Nam nhận định bước sang năm 2013, thị trường truyền hình trả tiền tại Việt Nam sẽ trở nên “nóng” hơn trong câu chuyện sáp nhập và cạnh tranh. Bởi lẽ, sẽ các doanh nghiệp viễn thông có thế mạnh về mạng truyền dẫn có thể cung cấp cho khách hàng dịch vụ truyền hình trả tiền với chất lượng tốt và giá cước hợp lí hơn.

Lo ngại mất miếng bánh thị phần, ngay từ cách đây vài tháng, VTV, SCTV, Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam… đã đồng loạt có văn bản gửi Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TT&TT đề nghị có ý kiến đòi "ngăn sông cấm chợ" để không cho các doanh nghiệp viễn thông tham gia. Thậm chí, họ cho rằng đây là hoạt động đầu tư ngoài ngành của viễn thông, dễ gây ra lãng phí nguồn lực và hơn hết là sẽ tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh.

Liên quan đến vấn đề này, trao đổi tại Tọa đàm, ông Nguyễn Văn Hải – Giám đốc Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC) cho rằng rõ ràng sự cạnh tranh đương nhiên sẽ trở nên lớn hơn khi có nhiều doanh nghiệp viễn thông với lợi thế về hạ tầng, kênh phân phối, công nghệ nhảy vào “tham chiến”

Tuy nhiên, ông Hải bày tỏ sự cạnh tranh ở lĩnh vực truyền hình trả tiền tại Việt Nam dù vậy vẫn chưa khốc liệt.

Còn ông Trương Gia Bình, Chủ tịch kiểm Tổng giám đốc FPT, thì bản chất của truyền hình trả tiền tại Việt Nam thực ra “vẫn chưa mở đối với một số đối tượng”. Ông Bình nhấn mạnh, nếu không cho doanh nghiệp viễn thông nhảy vào lĩnh vực này thì việc tốn kém đầu tiên là xã hội. Bởi, khi các dịch vụ mạng hội tụ rất nhiều trên cùng một đường cáp thì nếu doanh nghiệp chỉ cung cấp một dịch vụ trên đường cáp đó sẽ không thể tồn tại được. Mà như thế, nếu một đường truyền cho truyền hình, một đường cho điện thoại… thì hạ tầng cần phải xây rất nhiều đường, tức là cũng sẽ kéo luôn theo sự chậm phát triển của thị trường.

Mới đây nhất, tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ năm 2013 do Bộ TT&TT tổ chức hôm 24/12, ông Nguyễn Mạnh Hùng – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel cho rằng việc Viettel xin cấp phép tham gia thị trường truyền hình trả tiền (từ tháng 2/1012 – PV) nhưng hiện chưa được cấp phép. Và với tiềm lực hiện có, nếu hạ tầng cáp quang đến xã đầu tư thêm để cung cấp truyền hình cáp sẽ giảm chi phí đầu tư từ hai đến ba lần, giúp cho dịch vụ có thể phổ cập đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Doanh nghiệp viễn thông đủ tiềm lực sẽ được cấp phép

Trước ý kiến của Viettel tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ năm 2013 của Bộ TT&TT, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân bày tỏ quan điểm đồng tình để doanh nghiệp phát triển khi có khả năng và mong muốn triển khai các dịch vụ mới, vì thế cơ quan quản lí nên bàn bạc hỗ trợ.

Về trường hợp Viettel, Phó Thủ tướng chỉ đạo chậm nhất là tháng 2/2013, Bộ TT&TT cần trao đổi, có ý kiến trả lời doanh nghiệp về việc triển khai dịch vụ mới và báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ trong tháng 2/2013.

Liên quan đến vấn đề này, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Bắc Son cũng cho biết ngay trong tháng 2 sẽ xem xét trường hợp của Viettel để báo cáo Chính phủ.

Tại Tọa đàm Triển vọng thị trường viễn thông 2013, Thứ trưởng Bộ TT&TT Lê Nam Thắng cho biết, trước 2010, truyền hình vẫn được coi là lĩnh vực báo chí, ai làm truyền hình thì làm cả hạ tầng. Khi đó, Bộ TT&TT cũng đã thấy được vấn đề này. Cuộc "cách mạng" về truyền hình là ban hành quy hoạch phát sóng phát thanh truyền hình, xác định hạ tầng truyền dẫn cho phát thanh tuyền hình là hạ tầng viễn thông, còn nội dung truyền hình mới coi là lĩnh vực báo chí. Tách ra như vậy để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia cung cấp hạ tầng truyền dẫn phát sóng. Đây cũng là lần đầu tiên Bộ TT&TT đưa ra khái niệm dịch vụ truyền hình. Vừa rồi Thủ tướng ban hành tiếp quyết định về truyền hình trả tiền, đây là thay đổi tư duy dẫn đến thay đổi trong chính sách.

Như vậy, việc các doanh nghiệp viễn thông sẽ tham gia vào phần truyền trong việc cung cấp dịch vụ truyền hình cấp. Việc cung cấp dịch vụ này sẽ được áp dụng theo Luật Viễn thông.

Theo ICTNews

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Lãi 27 nghìn tỉ đồng, Viettel vượt xa VNPT

Năm 2012 đánh dấu doanh thu của Viettel lần đầu tiên vượt VNPT, trong khi lợi nhuận của Viettel gấp hơn 3 lần VNPT.

Ảnh

Doanh thu năm 2012 của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đạt 140 nghìn tỉ đồng, tăng trưởng 18,5% so với 2011, vượt kế hoạch năm.

Thông tin trên được ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel cho biết sáng nay (24/12) tại hội nghị tổng kết năm 2012 và triển khai nhiệm vụ năm 2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông.

Ông Hùng cho biết, lợi nhuận của Viettel năm 2012 là 27 nghìn tỉ đồng, tăng trưởng gần 40%, vượt kế hoạch 21%. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đạt trên 40%, nộp ngân sách nhà nước 11.400 tỉ đồng, tăng 24%, thu nhập bình quân người lao động tăng 12% so với năm 2011.

Trong khi đó, cũng trong sáng nay, ông Phạm Long Trận, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), cho biết, doanh thu năm 2012 của VNPT đạt 130.500 tỉ đồng, tăng trưởng 10% so với năm 2010, lợi nhuận đạt 8.500 tỉ đồng.

Như vậy, năm 2012, đánh dấu doanh thu của Viettel lần đầu tiên vượt VNPT. Mức lợi nhuận năm 2012 của Viettel cũng gấp hơn 3 lần so với VNPT.

Liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài, ông Hùng cho biết, hiện Viettel đang đầu tư và kinh doanh tại 7 nước, với thị trường 110 triệu dân, gồm 3 nước ở châu Á, hai nước ở châu Phi và hai nước ở châu Mỹ. 4 nước đã kinh doanh và có lãi với tổng số thuê bao đạt 10 triệu thuê bao.

Doanh thu riêng về dịch vụ viễn thông tại nước ngoài của Viettel đạt gần 600 triệu USD, tăng trưởng 45%, lợi nhuận mang về nước năm 2012 là 76 triệu USD, tăng trưởng 85%.

Dự kiến năm 2013, Viettel đặt mục tiêu tiếp tục giữ tốc độ tăng trưởng 18%, riêng thị trường nước ngoài tăng trưởng 50%. Nghiên cứu chế tạo thêm 10 thiết bị điện tử viễn thông “made in Việt Nam”.

Vị Phó Tổng giám đốc Viettel cũng cho biết, trong chiến lược giai đoạn tới, Viettel sẽ đẩy mạnh truy cập Internet băng rộng, nâng tốc độ truy cập lên 100 Mb/s, đưa truyền hình tới các hộ gia đình, phổ cập smartphone đến mọi người dân Việt Nam.

“Về cơ bản mục tiêu phổ cập này sẽ được thực hiện vào năm 2018", vị này tự tin nói.

Thêm nữa, Tập đoàn này cho biết, sẽ đưa công nghệ thông tin, viễn thông và truyền hình vào ứng dụng trong mọi đời sống xã hội nhằm tạo ra một doanh thu mới tương đương với viễn thông. Đồng thời sẽ đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài, mục tiêu sau 2015, thị trường của Viettel tại nước ngoài sẽ lớn hơn trong nước. Thị trường nước ngoài từ 400- 500 triệu dân vào năm 2015, và tiến tới 1 tỉ dân vào năm 2020.

“Thị trường này (nước ngoài – PV) không chỉ tạo ra doanh thu và lợi nhuận viễn thông mà còn cái nôi quan trọng đặc biệt về thị trường để hỗ trợ cho sản xuất thiết bị điện tử viễn thông”, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.

Theo VnEconomy

Girls Generation - Korean