(Tinhte)Ánh sáng, camera, action!
Trong vài năm qua trở lại đây, ranh giới giữa video và ảnh tĩnh dường như đang mờ dần. Điều này cũng không quá đáng ngạc nhiên: trong thời đại mà máy quay và máy ảnh tĩnh có chung rất nhiều công nghệ cơ bản cũng như tính năng và mục đích sử dụng thì sự khác biệt hầu như không còn. Khác nhau giữa chúng có hay chăng chỉ là các bộ phận phần cứng cũng như phần mềm riêng biệt dành riêng cho hình ảnh động hay tĩnh mà thôi.
Tính năng quay phim đã từ lâu trở thành một tính năng tiêu chuẩn, ngay cả trên các máy ảnh compact rẻ nhất. Và giờ đây chính sự phát triển vượt bậc của công nghệ tivi độ nét cao (High Definition TV) cùng với tiến bộ trong công nghệ cảm biến máy ảnh/máy quay đã trở thành một động lực lớn cho sự ra đời của hàng loạt máy chụp ảnh kĩ thuật số tích hợp tính năng quay video HD.
Thời kì của những chiếc máy ảnh HDSLR (High Definition Single Lens Reflex)
Từ nhiều năm nay máy ảnh kỹ thuật số bỏ túi (compact) đã có tính năng quay video với độ phân giải tối đa khoảng 640 x 480 pixel (chuẩn VGA) tốc độ 15 hoặc 30 fps (tức 15-30 khung hình/giây - frame per second). Các chế độ quay phim này thường đã quá đủ cho nhu cầu của chúng ta cho việc lưu trữ các thước phim kỉ niệm hay gửi đính kèm email, nhưng chắc chắn lại chưa thể đủ đẹp hay nét để xem trên một màn hình HDTV lớn. Chính vì thế, để lấp đầy khoảng trống đó, thế hệ mới của máy ảnh - cả compact và DSLR - đã xuất hiện với khả năng thu video độ nét cao gần như ảnh chụp tĩnh.
Năm 2008 Nikon giới thiệu D90 - máy ảnh DSLR đầu tiên trên thế giới có khả năng quay video độ nét cao High Definition (HD), tạo nên một cuộc chạy đua của nhà sản xuất máy ảnh SLR khác. Tại thời điểm đó, mặc dù một số máy ảnh DSLR chuyên nghiệp có khả năng chụp lên đến 10 khung hình/giây, tốc độ này chưa thể đủ để xuất thành video. Các video hành động muốn mượt mà cần phải được quay với tốc độ 25-30 khung hình/giây - những máy ảnh DSLR không thể lật gương nhanh đến thế được. Để giải quyết vấn đề này, thế hệ máy ảnh mới nhất đã có thể hoặc giữ gương lật lên và quay video liên tục thẳng lên cảm biến hoặc, với trường hợp máy ảnh thay ống kính, loại bỏ gương hoàn toàn. Và ở đây, những chiếc máy mà chúng tôi gọi là HDSLR (High Definition Single Lens Reflex) sử dụng chức năng Live View của cảm biến quay video, tức là sẽ cho gương lật lên trong suốt lúc sử dụng chức năng quay video.
Nhiều dòng máy compact cao cấp hiện đã có thể quay phim chuẩn HD (thường là 720p, tức độ phân giải 1280x720 pixel), và đồng thời cũng đã có nhiều nhà sản xuất lớn giới thiệu những chiếc máy ảnh DSLR quay phim HD. Những thước phim quay từ một chiếc DLSR đem lại cho ta khả năng sáng tạo cao nhất với những tùy chỉnh thường thấy trên một chiếc máy DSLR như khả năng kiểm soát độ sâu trường ảnh (DOF - depth of field) và độ phơi sáng (exposure) hay cả khả năng sử dụng những ống kính đặc biệt (fish-eye chẳng hạn).
Dưới đây là một bảng các lựa chọn của HDSLRs của Tháng 11 năm 2009:
Liệu rằng những thiết bị này sẽ thay thế được những chiếc máy quay phim truyền thống?
Chúng ta không thể phủ nhận sự cuốn hút của những thiết bị kết hợp cả chụp ảnh và quay phim độ nét cao (đặc biệt là những chiếc DSLR có thể thay đổi ống kính cùng với các tùy chỉnh cao cấp), nhưng không thể không nhắc đến những điểm yếu của dòng máy này so với những chiếc máy quay phim chuyên dụng, nhất là ở những máy chuyên dụng dòng trung và cao cấp, những dòng máy ta có thể điều khiển cả âm thanh và hình ảnh ở mức nâng cao hơn.
Sau đây là cơ bản về những điểm mạnh, yếu của DSLR so với máy quay chuyên dụng:
Lợi thế
- Chất lượng ảnh tĩnh tốt
- Lấy nét ảnh tĩnh nhanh
- Ống kính thay đổi được (chú ý là một số máy quay cao cấp có thể thay ống kính)
- Kiểm soát được độ sâu trường ảnh (DOF - depth of field )
- Quản lí file dễ dàng với thẻ nhớ
- Kích thước bé hơn so với các máy quay chuyên dụng tầm trung
Bất lợi
- Chất lượng quay phim chưa thể bằng máy chuyên dụng
- Không có autofocus khi quay phim hoặc chức năng này còn hạn chế
- Thời lượng clip bị giới hạn
- Không có thiết bị lưu trữ trong với bộ nhớ lớn (như ổ cứng)
- Thiết kế không chuyên dụng cho việc quay video (thiết kế cho tư thế cầm)
- Chất lượng âm thanh chưa tốt (phần cứng âm thanh nghèo nàn)
- Không có zoom số
Cách quay
Để quay phim một cách hiệu quả nhất với máy HDSLR, tốt nhất là chúng ta nên thay đổi thói quen cũng như kĩ thuật chụp ảnh, đơn giản bởi vì HDSLR tự nó chưa thực sự thích hợp với việc quay video (thiết kế, phần cứng kĩ thuật…).
Thứ nhất, việc xem ảnh/video với màn hình LCD lúc nắng gắt rất khó chịu. Thường thì bạn sẽ không thấy gì nếu màn hình quá tối, nếu được cũng sẽ rất khó khăn và dễ có những lầm tưởng về màu sắc cũng như độ sáng của ảnh. Sử dụng màn hình LCD để ngắm và quay còn có nghĩa là bạn phải giữ máy ảnh ở một khoảng cách nào đó với cơ thể, và phải cầm tay: đây không phải là cách lý tưởng để giữ bất kỳ máy ảnh nào và dễ gây rung cho ảnh và video. Một chân máy tốt sẽ xử lí được vấn đề nhưng điều này cũng có thể đồng nghĩa với việc mất đi cảm giác tự do khi sử dụng máy ảnh.
Thêm một điều nữa, khi bạn panning (lia máy) quá nhanh có thể làm mờ hình ảnh, một phần là vì những hình ảnh này được nén chuẩn MPEG - một khung hình chính được quay và sau đó trình tự tiếp theo của 11 khung hình sẽ sử dụng khung hình chính này làm một tham chiếu, các khung hình như thế được gọi là LGOP (Long Group of Pictures). Lia máy chậm rãi trên chân máy, máy sẽ cho ra kết quả tốt nhất. Hãy cố giữ cho thời gian lia lên khoảng 7 giây, khi đó không những ảnh sẽ không bị méo, mờ. Các máy ảnh hiện nay hầu hết sử dụng cảm biến CMOS, hình ảnh nhận được trên cảm biến sẽ được ghi từ trên xuống. Do vậy, máy sẽ gây biến dạng khi panning bởi phần dưới cùng của cảm biến sẽ nhận được ánh sáng sau phần trên, vậy nếu bạn có panning quá nhanh sau đó bạn có thể nhận thấy các đường thẳng đứng bị méo (gọi là 'hiệu ứng jello').
Hình ảnh bị méo khi quay phim trên Nikon D90
Lấy nét và độ phơi sáng
Chẳng ai thích xem một đoạn phim hay nói độ phân giải cao nhưng lại mờ và mất nét, đặc biệt là khi xem trên những màn hình lớn tầm 50 inch. Cách tốt nhất đảm bảo cho video sắc nét là thiết lập lấy nét đúng vào chủ thể trước khi chuyển sang chế độ Live View. Mặc dù một số SLR cho phép bạn tự động lấy nét trong chế độ Live View (bao gồm cả quay phim), chức năng này có thể nói là khá chậm và bạn cũng chẳng nên dùng mà nên sử dụng chế độ lấy nét tay (Manual focus).
Phơi sáng tự động (Auto Exposure) vẫn hoạt động trong khi quay phim. Xét sơ qua thì chức năng này có thể được xem là một chức năng hữu dụng, nhưng bất cứ thay đổi nào trong độ phơi sáng trong clip sẽ được rất dễ để ý. Phương pháp tốt nhất là khóa exposure trước khi bắt đầu ghi lại các video. Các tay quay phim chuyên nghiệp hiếm khi sử dụng chức năng tự động lấy nét hoặc phơi sáng tự động, đơn giản là vì họ biết rằng sửa lỗi phơi sáng trên toàn bộ đoạn phim còn dễ và nhanh hơn là cố gắng sửa các phân đoạn nhỏ khác nhau trong cả một clip.
Độ sâu trường ảnh (DOF - Depth of Field)
Khác biệt lớn nhất giữa máy quay chuyên dụng và máy HDSLR là kích thước cảm biến, một phần quan trọng trong kích thước cảm biến chính là khả năng thể hiện DOF. Như trên hình, hầu hết máy quay chỉ có cảm biến CCD kích thước 1/3 tới 2/3 inch.
Một trong những lợi thế chính khi sử dụng một máy HDSLR là khả năng điều khiển được độ sâu trường ảnh, đặc biệt là khi sử dụng các máy HDSLR full-frame như Canon 5D Mark II hay Nikon D3S. Kích thước cảm biến lớn hơn sẽ cho bạn độ sâu trường ảnh tốt hơn, nhưng điều này cũng có nghĩa là việc lấy nét vào chủ thể phải vô cùng thận trọng: với độ sâu trường ảnh quá nông, việc ảnh bị out nét hay mờ do lấy nét sai là rất dễ xảy ra. Các cảm biến kích cỡ nhỏ hơn (được sử dụng trong máy ảnh compact và máy quay) giảm bớt được vấn đề về nét vì DOF lúc này sẽ sâu hơn. Một điều cần chú ý khác là bụi trên ống kính: bạn nên thường xuyên rũ/lau bụi ra khỏi ống kính vì bụi có thể gây ra việc lấy nét sai.
Âm thanh
Hầu hết các nhà sản xuất chưa chú tâm đến chất lượng âm thanh của máy ảnh HDSLR. Video thường được sử dụng âm thanh ở 48 KHz, trong khi Canon và Olympus chọn 44.1kHz còn Nikon là 11kHz. Riêng Panasonic thì sử dụng dải 48 kHz cho phần lớn máy ảnh của họ. Âm thanh dường như chỉ được các nhà sản xuất coi là một tính năng mang tính "thêm vào cho đủ gia vị" với tầm quan trọng rất ít, hầu như cung cấp không có hoặc rất hạn chế tính năng tùy chỉnh âm thanh. Điều này có thể xem là một thiếu sót lớn bởi âm thanh là một yếu tố quan trọng trong mọi video.
Một số dòng máy đã tích hợp micro nổi trong khi hầu hết còn lại sử dụng một micro mono nhỏ trên thân máy. Loại micro nổi này có lợi điểm ghi âm tốt hơn, nhưng không phải không có nhược: nó sẽ ghi âm cả những thứ ngoài ý muốn. Tuy nhiên, một vài máy ảnh hiện nay đã có sẵn một đường cắm âm thanh để bạn có thể sử dụng micro chuyên nghiệp gắn ngoài.
Độ phân giải video
Có lẽ chỉ mới cách đây 10 năm thì một đầu máy VCR còn là xa xỉ đối với các gia đình và chúng ta chỉ có hai dạng video (analog) là VHS và Betamax. Lúc đó không ai để ý tới con số pixel hay độ phân giải. Nhưng với lịch sử phát triển công nghệ thì thời kì đó đã qua lâu rồi. Giờ đây chúng ta đã quá quen với các cụm từ "điểm ảnh" hay "độ phân giải", và xu hướng thị trường cũng như thị hiếu của người dùng đều nhắm đến định dạng video độ nét cao (HD).
Sau đây là phân loại về video dựa trên độ phân giải:
* Full HD (1080p): 1920x1080 pixel, hiện là chuẩn video có độ phân giải lớn nhất hiện nay. Chuẩn Full HD cho chất lượng tuyệt vời khi xem trên màn hình Plasma hay LCD kích thước lớn. Nhược điểm: yêu cầu cấu hình mạnh để có thể xử lí được.
- HD (720p): 1280x720 pixel. Dù kích thước không lớn bằng Full-HD nhưng 720p vẫn đem đến chất lượng hình ảnh nổi bật. Nếu bạn dự định sản xuất đĩa DVD hoặc muốn tải lên web thì 1280 x 720 là một lựa chọn tốt.
- HDV. (High Definition Video): định dạng này chủ yếu được sử dụng trên máy quay băng. Định dạng là 1440 x 1080 Anamorphic (phim chiếu sai). Sau khi tải về các khung hình sẽ mở rộng thành Full-HD (1920 x 1080), nhưng vì hình ảnh được "bóp" lại theo chiều ngang trên nó có thể mất đi một phần độ nét.
- SD (Standard Definition): 720 x 480 pixel (NTSC - Bắc Mỹ) hoặc 720 x 576 pixel (PAL - Châu Âu). Hầu như tất cả các đĩa DVD thương mại được sản xuất dưới dạng SD. Định dạng hình ảnh có thể là 4:3 hoặc 16:9.
- VGA (Video Graphics Array): 640 x 480 pixel. VGA đã được sử dụng từ rất lâu cho các dạng video trên web, gửi như file đính kèm qua email, trong thuyết trình. Với độ phân giải này thì video chưa thể gọi là sắc nét được, và nếu so với các chuẩn HD thì sẽ là một trời một vực. Nói chung VGA cho phép quay phim lâu hơn nhưng chất lượng thấp hơn. Hầu hết các máy ảnh kỹ thuật số đều có tùy chọn VGA. Ngoài ra còn có một chuẩn khác là SVGA (Super VGA) với độ phân giải 800x600.
Trên TV, một video VGA được tự phóng to ra toàn màn hình xem sẽ có vẻ dễ chịu hơn khi xem trên máy vi tính với màn hình LCD 20 inch. Nếu phóng to video ra toàn màn hình trên máy vi tính, bạn sẽ thấy video "bể" ra thấy rõ. Ta có thể lí giải điều này như sau: màn hình máy tính thường có độ phân giải cao hơn so với độ phân giải của TV nên khi chơi video độ phân giải thấp thì màn hình có độ phân giải thấp hơn sẽ cho cảm giác ít bể hơn; tuy nhiên, lí do chủ yếu của việc này mà ít ai biết tới đó là do người xem thường xem màn hình máy vi tính ở khoảng cách rất gần và họ sẽ để ý được nhiều chi tiết hơn, ở đây là các chi tiết bể và kém nét của video.
Định dạng video: Motion JPEG, MPEG hay AVCHD?
Đa số các máy ảnh kỹ thuật số hiện nay vẫn còn quay phim dạng JPEG chuyển động như nhiều năm trước đây. Như tên của nó, chuẩn JPEG chuyển động (Motion-JPEG hay M-JPEG) nén mỗi khung hình riêng lẻ thành một ảnh JPEG. So với các hệ thống tập tin video tiên tiến hơn, M-JPEG cho ra tập tin tương đối lớn, nhưng chất lượng hình ảnh thường là rất tốt, các tập tin có thể được xem trên hầu hết bất cứ máy tính nào mà không cần phần mềm bổ sung. M-JPEG phim thường được lưu dưới dạng video QuickTime (. MOV) hoặc chuẩn nén AVI.
Lý do chính nhà sản xuất chọn M-JPEG là chi phí: nó không yêu cầu bất kỳ phần cứng bổ sung trong máy ảnh hay lệ phí giấy phép nào. Tuy nhiên, vì nhu cầu về chất lượng video ngày càng tăng, các nhà sản xuất càng hướng đến hệ thống nén tinh vi hơn, cụ thể là MPEG-4 (thường sử dụng codec H.264) vì MPEG-4 có chỉ số bit rate cao hơn nhưng lại cho ra file kích thước bé hơn. Máy có cảm biến loại Micro Four Thirds của Panasonic cũng như nhiều máy quay phim kỹ thuật số khác sử dụng hệ thống AVCHD dựa trên nén MPEG-4/H.264 nhưng sử dụng một hệ thống thư mục phức tạp tương tự như đĩa Blu-ray (tuy không toàn toàn giống nhau).
Hiện nay, tất cả các máy HDSLR quay phim với chế độ Progressive. Chế độ Progressive có nghĩa là mỗi khung hình đều là một bức ảnh hoàn chỉnh (biểu thị ở chữ "p'' ở cuối các tên kích thước video). Còn một chế độ quay khác là Interlaced. Chế độ này thường có số lượng khung hình cao hơn gấp đôi Progressive, biểu thị bằng chữ "i" sau chỉ số khung hình/giây (60i hoặc 50i) nhưng mỗi khung hình chỉ chứa một nửa thông tin hình ảnh (được gọi là field, 50i nghĩa là 50 Interlaced fields), gồm 2 loại là Upper (frame phía trên) và Lower (frame phía dưới). Cứ mỗi 2 frame sẽ được kết hợp lại bằng cách chồng lên nhau để tạo nên một frame hoàn chỉnh. Chế độ Interlaced cho ra phim hành động mượt mà hơn nhưng vẫn có thể để lại hiệu ứng tách hình. Chế độ Interlaced thường được sử dụng trên máy quay phim hơn.
Một frame từ video quay với chế độ Interlaced xảy ra hiện tượng Upper frame và Lower frame không đồng bộ. Bên phải là ảnh đã quay xử lí filter De-Interlaced trong Photoshop.
Kích thước file
Khi chụp ảnh tĩnh, chúng ta có thể hoặc chụp ảnh chất lượng cao hơn với định dạng RAW kích thước file lớn hoặc chụp được nhiều hình hơn với định dạng nén JPEG. Nhược điểm của JPEG so với RAW là chất lượng thấp hơn, nhưng trong thực tế hầu hết người dùng không nhận thức được sự giảm đáng kể trong chất lượng hình ảnh. Đối với video, chúng ta không có khái niệm nào tương đương với RAW trong chụp ảnh tĩnh, thay vào đó là các loại codec khác nhau được dùng để nén. Một đoạn ngắn video HD có thể chiếm đến vài gigabyte, do đó để phù hợp với các loại thẻ nhớ khác nhau, video HD phải sử dụng một hình thức nén nào đó. MPEG-4 là một lựa chọn phổ biến nhất trong các chuẩn nén. Một đoạn phim khoảng bốn phút quay với chuẩn Full-HD (1920 x 1080) nếu sử dụng chuẩn nén MPEG-4 chiếm 1.048 MB (tức chỉ hơn 1 GB một chút), trong khi đó đoạn phim tương tự nếu không nén sẽ chiếm đến 32.457 GB bộ nhớ. Đó chính là sự khả năng kì diệu của các chuẩn nén. Nhiều máy ảnh tĩnh hiện nay cho phép quay với chuẩn nén AVI hoặc MOV - đây là những chuẩn nén tập tin ít phức tạp hơn nhưng đồng thời cũng ít hiệu quả hơn.
Chỉnh sửa Video
Có rất nhiều ứng dụng chỉnh sửa video dành người tiêu dùng không chuyên như iMovie (Mac), Adobe Premiere Elements 8, hay Corel X2 Studio Video. Các ứng dụng phổ biến cung cấp nhiều trình wizard (chỉnh sửa theo từng bước với các tùy chọn) giúp bạn có được sản phẩm video sau chỉnh sửa như ý mà lại tốn rất ít thời gian. Để chỉnh sửa chuyên nghiệp hơn, bạn nên biết đến các phần mềm Final Cut Pro (Mac), Adobe Premiere Pro CS4, Avid, Sony Vegas, Adobe After Effects CS4 v.v... Để sử dụng các phần mềm cao cấp này bạn cần phải bỏ ra một khoảng thời gian cũng như cố gắng khá lớn, nhưng những tác phẩm bạn cho ra sẽ vô cùng tuyệt vời. Bạn có thể áp dụng nhiều hơn hoặc ít hơn các công cụ chỉnh sửa màu, chẳng hạn như Color Balance (cân bằng màu), Hue (sắc độ), Saturation (độ đậm nhạt), Curves, v.v... Thêm một ca khúc nhạc và sau đó export video ra, ghi lại thành DVD hay upload lên các trang chia sẻ video trên Internet.
Giống như những ảnh tĩnh JPEG, TIFF, PSD, GIF, v.v... video cũng có thể xuất ra với các định dạng khác nhau gọi là "Wrappers". Mỗi video có thể được "wrap" trong một định dạng để đọc được bởi một trình chơi video nào đó, có thể là một tập tin MOV cho QuickTime, WMV cho Windows Media Player, Flash FLV cho Flash Player, v.v... Bạn có thể lựa chọn định dạng xuất ra cho video sau khi sau khi bạn đã hoàn thành việc chỉnh sửa tập tin và sẵn sàng để xuất nó. Bạn cũng sẽ được cung cấp một danh sách dài những codec đầu ra, chúng sẽ xác định video sẽ được nén như thế nào.
Các tiêu chuẩn cho TV
Tại Bắc Mỹ, các thiết bị gia dụng sử dụng tiêu chuẩn NTSC (National Television System Committee) có thể chạy video tại 29,97fps (thường được gọi là 30fps). Hầu hết các nước Châu Âu và Vương quốc Anh sử dụng tiêu chuẩn truyền hình PAL (Phase Alternating Line), tốc độ 25fps. Bạn có thể chơi các DVD chuẩn NTSC trên các bộ TV sử dụng chuẩn PAL, nhưng bạn không thể chơi DVD chuẩn PAL trên TV NTSC. Còn một tùy chọn khác là sử dụng chuẩn 24fps, chính là tốc độ quay của phim điện ảnh (thực ra là 23.976fps), hầu như tất cả TV có thể phát ở tốc độ này.
Bản đồ phân chia NTSC và PAL:
Tin tức công nghệ, khoa học kỹ thuật mới nhất tại Việt Nam & các nước trên thế giới. Cập nhật những bài viết về kinh nghiệm, thủ thuật, sản phẩm mới, tin công ...
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khái Niệm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khái Niệm. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2010
Cơ bản về HD video
Thứ Bảy, 11 tháng 9, 2010
Tìm hiểu về Điện toán đám mây (cloud computing)
Trước hết ta tìm hiểu chút về lịch sử của thuật ngữ này :Thuật ngữ điện toán đám mây xuất hiện bắt nguồn từ ứng dụng Điện toán lưới (grid computing) trong thập niên 1980, tiếp theo là Điện toán nhu cầu(utility computing) và Phần mềm dịch vụ (SaaS).Điện toán lưới đặt trọng tâm vào việc di chuyển một tải công việc (workload) đến địa điểm của các tài nguyên điện toán cần thiết để sử dụng. Một lưới là một nhóm máy chủ mà trên đó nhiệm vụ lớn được chia thành những tác vụ nhỏ để chạy song song, được xem là một máy chủ ảo.Với điện toán đám mây, các tài nguyên điện toán như máy chủ có thể được định hình động hoặc cắt nhỏ từ cơ sở hạ tầng phần cứng nền và trở nên sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ, hỗ trợ những môi trường không phải là điện toán lưới như Web ba lớp chạy các ứng dụng truyền thống hay ứng dụng Web 2.0.
Hiểu một cách đơn giản, điện toán đám mây là việc ảo hóa các tài nguyên tính toán và các ứng dụng. Thay vì việc bạn sử dụng một hoặc nhiều máy chủ thật (ngay trước mắt, có thể sờ được, có thể tự bạn ấn nút bật tắt được) thì nay bạn sẽ sử dụng các tài nguyên được ảo hóa (virtualized) thông qua môi trường Internet. Bản thân từ đám mây (cloud) là một từ ẩn dụ (metaphor) cho Internet.
Như vậy, trước đây để có thể triển khai một ứng dụng (ví dụ một trang Web), bạn phải đi mua/thuê một hay nhiều máy chủ (server), sau đó đặt máy chủ tại các trung tâm dữ liệu (data center) thì nay điện toán đám mây cho phép bạn giản lược quá trình mua/thuê đi. Bạn chỉ cần nêu ra yêu cầu của mình, hệ thống sẽ tự động gom nhặt các tài nguyên rỗi (free) để đáp ứng yêu cầu của bạn. Chính vì vậy, có thể kể đến một vài lợi ích cơ bản của điện toán đám mây như sau :
- Sử dụng các tài nguyên tính toán động (Dynamic computing resources) : Các tài nguyên được cấp phát cho doanh nghiệp đúng như những gì doanh nghiệp muốn một cách tức thời. Thay vì việc doanh nghiệp phải tính toán xem có nên mở rộng hay không, phải đầu tư bao nhiêu máy chủ thì nay doanh nghiệp chỉ cần yêu cầu “Hey, đám mây, chúng tôi cần thêm tài nguyên tương đương với 1 CPU 3.0 GHz, 128GB RAM…” và đám mây sẽ tự tìm kiếm tài nguyên rỗi để cung cấp cho bạn.
- Giảm chi phí : Doanh nghiệp sẽ có khả năng cắt giảm chi phí để mua bán, cài đặt và bảo trì tài nguyên. Rõ ràng thay vì việc phải cử một chuyên gia đi mua máy chủ, cài đặt máy chủ, bảo trì máy chủ thì nay bạn chẳng cần phải làm gì ngoài việc xác định chính xác tài nguyên mình cần và yêu cầu. Quá tiện!.
- Giảm độ phức tạp trong cơ cấu của doanh nghiệp : Doanh nghiệp sản xuất hàng hóa mà lại phải có cả một chuyên gia IT để vận hành, bảo trì máy chủ thì quá tốn kém. Nếu outsource được quá trình này thì doanh nghiệp sẽ chỉ tập trung vào việc sản xuất hàng hóa chuyên môn của mình và giảm bớt được độ phức tạp trong cơ cấu.
- Tăng khả năng sử dụng tài nguyên tính toán : Một trong những câu hỏi đau đầu của việc đầu tư tài nguyên (ví dụ máy chủ) là bao lâu thì nó sẽ hết khấu hao, tôi đầu tư như thế có lãi hay không, có bị outdate về công nghệ hay không … Khi sử dụng tài nguyên trên đám mây thì bạn không còn phải quan tâm tới điều này nữa.
- Kiến trúc hướng dịch vụ (SOA)
Các vấn đề bảo mật vẫn không ngăn được sự bùng nổ công nghệ cũng như sự ưa chuông điện toán đám mây bởi khả năng giải quyết và đáp ứng các nhu cầu bức thiết trong kinh doanh. Để đảm bảo an toàn cho đám mây điện toán, chúng ta cần nắm được vai trò của nó trong sự phát triển công nghệ. Rất nhiều câu hỏi tồn tại xung quanh những ưu và khuyết điểm khi sử dụng điện toán đám mây trong đó tính bảo mật, hữu dụng và quản lí luôn được chú ý xem xét kĩ lưỡng. Bảo mật là đề tài được giới người dùng thắc mắc nhiều nhất và sau đây là 10 câu hỏi hàng đầu được đặt ra để quyết định liệu việc triển khai điện toán đám mây có phù hợp hay không và nếu không thì nên chọn mô hình nào cho phù hợp: cá nhân, công cộng hay cả 2.
1. Khả năng rủi ro khi triển khai mô hình điện toán đám mây?
Dù mang tính chất cá nhân hay công cộng thì chúng ta vẫn không thể hoàn toàn quản lí được môi trường, dữ liệu và kể cả con người. Những thay đổi trong mô hình có thể làm tăng hoặc giảm rủi ro. Những ứng dụng đám mây cung cấp thông tin rõ ràng, các công cụ thông báo tiên tiến và tích hợp với hệ thống sẵn có sẽ làm giảm rủi ro. Tuy nhiên, một vài ứng dụng khác lại không thể điều chỉnh các trạng thái bảo mật, không phù hợp với hệ thống sẽ làm gia tăng rủi ro.
2. Cần phải làm gì để chắc chắn chính sách bảo mật hiện tại tương thích với mô hình đám mây?
Mỗi thay đổi trong mô hình là mỗi dịp để ta cải thiện tình trạng và chính sách bảo mật. Vì người sử dụng sẽ tác động và điểu khiến mô hình đám mây nên chúng ta không nên tạo ra chính sách bảo mật mới. Thay vào đó là mở rộng chính sách hiện thời để tương thích với các nền tảng kèm theo. Để tay đổi chính sách bảo mật thì ta cần xem xét các yếu tố tương quan như: dữ liệu sẽ được lưu ở đâu, bảo vệ như thế nào, ai được phép truy cập, và cần tuân theo những quy tắc và thỏa hiệp gì.
3. Việc triển khai mô hình đám mây có đáp ứng được yêu cầu ủy thác?
Triển khai mô hình đám mây tác động đến tỉnh rủi ro và ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng các quy tắc khác nhau. Một vài ứng dụng đám mây có khả năng thông báo hay báo cáo tình trạng hoạt động mạnh mẽ đồng thời được thiết lập để đáp ứng những yêu cầu thích ứng riêng biệt. Trong khi một số lại quá chung chung và không thể đáp ứng được những yêu cầu chi tiết. Ví dụ như khi chúng ta truy xuất dữ liệu, một thông báo hiện ra cho biết dữ liệu chỉ được lưu trữ trong phạm vi lãnh thổ (server trong nước) thì chúng ta không thể truy xuất được bởi các nhà cung cấp dịch vụ không thể thực hiện yêu cầu này.
4. Liệu các nhà cung cấp dịch vụ sử dụng các chuẩn bảo mật hay theo thực tế kinh nghiệm (SAML, WSTrust, ISO, v.v..)?
Các tiêu chuẩn có vai trò quan trọng trong điện toán đám mây như một sự tương kết giữa các dịch vụ và ngăn tình trạng độc quyền dịch vụ bảo mật. Rất nhiều tổ chức được thành lập nhằm khởi tạo và mở rộng để hổ trợ trong bước khởi đầu triển khai mô hình. Danh sách các tổ chức hổ trợ được liệt kê tại: Cloud-standards.org.
5. Điều gì sẽ xảy ra nếu vi phạm và xử lý như thế nào?
Khi lên chương trình bảo mật cho mô hình, chúng ta cũng cần lên kế hoạch giải quyết các lỗi vi phạm và tình trạng mất dữ liệu. Đây là yếu tố quan trọng trong các điều khoảng của nhà cung cấp và được thực hiện bởi cá nhân. Chúng ta buộc phải đáp ứng những chính sách và điều lệ do nhà cung cấp đề ra để đảm bảo được hổ trợ kịp thời nếu gặp sự cố.
6. Ai sẽ quan sát và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn cho dữ liệu?
Trên thực tế thì trách nhiệm bảo mật được chia sẻ. Tuy nhiên, ngày nay vai trò này lại thuộc về hệ thống thu thập dữ liệu mà không phải nhà cung cấp. Chúng ta có thể đàm phán để giới hạn trách nhiệm đối với viêc mất mát dữ liệu cụ thể là chia sẻ vai trò này với nhà cung cấp. Nhưng cuối cùng, chúng ta vẫn là người chịu trách nhiệm.
7. Làm thế nào để chắc chắn rằng những dữ liệu phù hợp đã được chuyển vào mô hình?
Để biết được dữ liệu nào đã được chuyển vào đám mây, chúng ta phải hiểu dữ liệu là gì và xây dựng một hệ thống bảo mật phù hợp dựa trên dữ liệu và các ứng dụng. Quy trình này tốn nhiều thời gian để bắt đầu và rất nhiều công ty sử dụng công nghệ chống rò rỉ dữ liệu để phân loại và theo dõi dữ liệu.
8. Làm thế nào để chắc chắn những nhân viên, đối tác và khác hàng được ủy quyền có thể truy xuất dữ liệu và ứng dụng?
Vấn đề về quản lí thông tin truy cập và truy xuất dữ liệu là một thách thức trong bảo mật. Các công nghệ như truy cập chéo miền (federation), hệ thống ảo an toàn, và dự phòng đóng vai trò quan trọng trong bảo mật điện toán đám mây. Hổ trợ đám mây bằng cách mở rộng và bổ sung môi trường có thể giúp giải quyết thách thức này.
9. Dữ liệu và ứng dụng được đăng tải như thế nào, công nghệ bảo mật nào thưc hiện công việc này?
Các nhà cung cấp đám mây sẽ cung cấp thông tin này cũng như trực tiếp tác động đến khả năng đáp ứng các yêu cầu của một tổ chức hay cá nhân. Do đó, yếu tố rõ ràng là rất cần thiết đối với chúng ta trước khi đưa ra quyết định.
10. Yếu tố nào khiến chúng ta có thể tin tưởng vào nhà cung cấp?
Rất nhiều yếu tố đề ra để đánh gía độ tin cậy của một nhà cung cấp như: kỳ hạn dịch vụ, hình thức hợp đồng, thủ tục SLAs (Service Level Agreements) thỏa hiệp hợp đồng dịch vụ, chính sách bảo mật, tiểu sử hoạt động, chiến lược, và danh tiếng. Tuy nhiên, vẫn chưa có câu trả lời chính xác cho câu hỏi trên.
Tổng hợp từ Internet
Thứ Năm, 9 tháng 9, 2010
Smartphone là gì?
Hiện nay có rất nhiều điện thoại mới sản xuất,trong đó nhiều Model được gọi là Smartphone.Chúng ta cùng tìm hiểu thế nào là 1 Smartphone ???
P1i của SonyEricsson với camera lên đến 3,2 Megapixel
Trong vài năm gần đây, bạn có thể thấy thuật ngữ “smart-phone” xuất hiện ngày càng nhiều trên các báo và tạp chí. Một số trường hợp được dịch thành “điện thoại thông minh”, cũng có khi nó được giữ nguyên gốc “smart phone”. Vậy có bao giờ bạn muốn tìm hiểu “smart phone”, hay “điện thoại thông minh”, có nghĩa là gì không?
Trong vài năm gần đây, bạn có thể thấy thuật ngữ “smart-phone” xuất hiện ngày càng nhiều trên các báo và tạp chí. Một số trường hợp được dịch thành “điện thoại thông minh”, cũng có khi nó được giữ nguyên gốc “smart phone”. Vậy có bao giờ bạn muốn tìm hiểu “smart phone”, hay “điện thoại thông minh”, có nghĩa là gì không?
Rắc rối định nghĩa
Chẳng hạn với chiếc điện thoại iPhone, các chuyên gia phân tích thị trường của ABI Research thì cho rằng nó cũng khá xuất sắc và nhiều tính năng, nhưng không thể coi là “điện thoại thông minh”. Vì điện thoại thông minh, theo họ, phải là “có các tính năng mở, hệ điều hành hỗ trợ các phần mềm ứng dụng từ bên thứ ba”.
Trong khi đó, Gartner, một công ty nghiên cứu thị trường khác, lại định nghĩa điện thoại thông minh là “một thiết bị cầm tay, có màn hình lớn, định hướng vào việc nghe gọi điện thoại, có đầy đủ các chức năng của một chiếc điện thoại, đồng thời có các chức năng của một thiết bị hỗ trợ cá nhân (PDA).”
Còn theo định nghĩa của Palm, điện thoại thông minh là “một thiết bị di động kết hợp giữa một chiếc điện thoại không dây, có chức năng gửi nhận email, truy cập web, tất cả nằm trong một phần cứng độc lập và tích hợp.”
Tóm lại, quan điểm về một chiếc điện thoại thông minh vẫn còn rất nhiều điều tranh cãi. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều coi điện thoại thông minh là một chiếc điện thoại có các chức năng hỗ trợ cá nhân (PDA) và có thể truy cập Internet, không quan tâm đến tính mở của hệ điều hành của chiếc điện thoại đó.
Bản thân từ “điện thoại thông minh” cũng đã có nhiều vấn đề. Nó là một thuật ngữ không có định hướng và dễ gây hiểu nhầm.
Ngành di động tránh sử dụng từ “điện thoại thông minh”
Mặc dù các học giả, các chuyên gia và cả bản thân chúng ta đều rất thích dùng từ “điện thoại thông minh”, nhưng thực tế là các công ty đang hoạt động trong ngành này lại tránh sử dụng nó. Hãy xem thử họ đang phân loại các sản phẩm di động của mình như thế nào:
- Nokia sử dụng các từ: “điện thoại máy ảnh”, “điện thoại Bluetooth”, “điện thoại quay video”.
- Sony Ericsson sử dụng các từ: “điện thoại gọi và nhắn tin”, “điện thoại máy ảnh”, “điện thoại nghe nhạc”, “điện thoại thiết kế”, và “điện thoại truy cập web và email”.
- LG sử dụng các từ: “điện thoại EVDO”, “điện thoại Bluetooth”, “điện thoại MP3”.
- Palm gọi tất cả các loại điện thoại của mình là “điện thoại thông minh”.
- RIM (hãng sản xuất Blackberry) gọi tất cả các loại điện thoại của mình là “thiết bị”.
- Samsung và Motorola thậm chí còn tránh phân loại điện thoại thành các nhóm khác nhau.
Còn các nhà cung cấp mạng thì sử dụng những thuật ngữ gì?
(Lưu ý rằng tại nhiều nước châu Âu và châu Mỹ, điện thoại di động thường được bán qua các nhà cung cấp mạng, người đăng ký thuê bao của nhà cung cấp đồng thời được cung cấp cả điện thoại).
- Sprint sử dụng các từ: “điện thoại đa phương tiện”, “điện thoại video”, "điện thoại ảnh", và “điện thoại PDA”.
- Cingular sử dụng các từ: “điện thoại chụp ảnh”, “điện thoại nghe nhạc”, “Gophone” (điện thoại dành cho dịch vụ Gophone của hãng), “PDA/điện thoại thông minh” và “điện thoại nắp gập”.
- T-Mobiles thì phân chia điện thoại theo hình dáng thiết kế: “điện thoại dạng thanh”, “điện thoại nắp gập”, “điện thoại trượt”, và “điện thoại trượt ngang”.
- Verizon sử dụng các từ: “điện thoại di động”, “PDA & điện thoại thông minh”, “thiết bị Blackberry” và “điện thoại Push to talk” (Push to talk là công nghệ cho phép bạn thực hiện các cuộc gọi có thời gian thực với 1 hoặc nhiều người, ứng dụng cho các cuộc họp hội nghị qua điện thoại).
Như vậy, chỉ có Cingular và Verizon sử dụng thuật ngữ “điện thoại thông minh”, nhưng như bạn thấy, nó vẫn phải đi cùng với từ “PDA” để giải thích rõ nghĩa. “Điện thoại thông minh” đứng độc lập thì không thể mô tả rõ được các chức năng của điện thoại. Còn Palm sử dụng từ “điện thoại thông minh” cho tất cả các loại điện thoại của mình, tức là từ này không được sử dụng nhằm mục đích phân loại điện thoại.

Khoảng cách giữa “điện thoại thông minh” và điện thoại thường
Thực tế là, sự khác biệt của một chiếc điện thoại thông minh và một chiếc điện thoại thông thường đôi khi rất ít.
Ban đầu, khi điện thoại di động vẫn còn hạn chế các chức năng, chủ yếu người ta chỉ quan tâm đến việc nghe, gọi và nhắn tin, thì các chức năng bổ sung như hỗ trợ quản lý thông tin cá nhân, truy cập Internet, khi đưa vào điện thoại sẽ được xem là “điện thoại thông minh”.
Nhưng lâu dần, khi công nghệ phát triển, hầu hết các chức năng “cao cấp” này đều có thể dễ dàng tìm thấy ở một chiếc điện thoại giá rẻ mà các nhà phân tích thị trường sẽ không bao giờ coi nó là “điện thoại thông minh”.
Thêm một ví dụ khác về ranh giới mong manh giữa một điện thoại “thông minh” và một điện thoại “không thông minh”. Chiếc LG enV của hãng LG, hỗ trợ Bluetooth 2.0, các chức năng nghe nhạc MP3, xem video (stereo), có thể kết nối với máy tính và sử dụng như một modem để truy cập Internet, lịch làm việc và email hỗ trợ vCard, máy ảnh 2 megapixels, có loa ngoài, có các chức năng chuyển văn bản thành giọng nói, nhận dạng giọng nói, bàn phím QWERTY, hỗ trợ thẻ nhớ microSD…, thế nhưng vẫn không được coi là “điện thoại thông minh”, vì các chuyên gia phân tích cho rằng phần mềm ứng dụng viết cho loại điện thoại này cần phải hỗ trợ BREW hoặc Java, chứ không phải như các loại điện thoại thông minh khác.
Đến đây, không biết bạn đã thấy rõ ràng hơn chút nào về thuật ngữ “điện thoại thông minh” chưa? Vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn, nhưng hy vọng là những tổng hợp trên đây sẽ giúp bạn có được một định nghĩa cho riêng mình.Việt Báo (Theo_24h)

Hầu hết tất cả các định nghĩa phổ thông hiện nay đều tập trung chủ yếu vào những khía cạnh hiểu biết cơ bản rằng smartphone mang đến sức mạnh xử lý của một chiếc máy tính kết hợp với thiết bị thoại không dây. Tất cả mọi người đều đồng ý về quan điểm này. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến tách biệt smartphone với một chiếc điện thoại không dây chuẩn (cũng được tích hợp một số sức mạnh tính toán với khả năng thoại không dây).
Không có quy chuẩn chung
Các nhà phân tích công nghiệp di động lại sử dụng những khái niệm phân chia này để quyết định việc chia tách số lượng smartphone với các chủng loại điện thoại không dây. Chẳng hạn như họ có thể nói rằng một chiếc điện thoại không dây như kiểu LG Rumor2 được Sprint Nextel bán trong tháng 3 vừa qua. Về mặt kỹ thuật thì đây không phải là một chiếc smartphone nhưng nó cũng cung cấp khả năng truy cập e-mail, lướt Web và có cả bàn phím Qwerty.
Trong khi đó, iPhone hay bất cứ chiếc BlackBerry, Nokia dòng N hoặc E nào đều được coi là smartphone, ít nhất là cũng theo cách gọi của Gartner và IDC, hai công ty nghiên cứu thị trường lớn nhất thế giới hiện nay chuyên theo dõi doanh số smartphone và điện thoại không dây bán ra thị trường.
Còn CTIA, tổ chức công nghiệp đại diện cho hàng trăm nhà sản xuất thiết bị không dây và mạng không dây lại có cách tiếp cận đơn giản hơn về mặt ngữ nghĩa. Họ chỉ đơn giản gọi smartphone là một dạng “điện thoại không dây có chức năng dữ liệu cao cấp và có cả bàn phím”. CTIA định nghĩa từ “smart” (thông minh) là khả năng quản lý và truyền dữ liệu bên cạnh các chức năng thoại thông thường. Tuy nhiên, phát ngôn viên CTIA thì lại công nhận rằng đó không phải là định nghĩa chuẩn về smartphone, và rằng cách gọi của tổ chức này chỉ là “chung chung”.
Thay đổi theo thời gian
Trong số 4 nhà phân tích công nghiệp được IDC hỏi về vấn đề này đều nói rằng cụm từ “smartphone” thực ra là một dạng nghệ thuật, đã thay đổi rất nhiều kể từ khi các thiết bị không dây ra mắt năm 2000. Đây chính là thời điểm Palm bắt đầu cho thêm tính năng thoại vào thiết bị trợ giúp cá nhân kỹ thuật số (PDA) của hãng này. “Smartphone là một trong những dạng thức nghệ thuật thay đổi theo thời gian”, nhận định của nhà phân tích IDC, Ramon Llamas.
IDC đã tiến hành một cuộc khảo sát ý kiến khách hàng cuối mùa hè trước và phát hiện ra rằng có nhiều định nghĩa về smartphone. Một số người cho rằng smartphone là một thiết bị truy cập Internet không dây; còn một số khác thì nghĩ rằng nó phải có khả năng xử lý dạng tin nhắn SMS hoặc cho phép gõ ký tự trên màn hình cảm ứng hoặc bàn phím ảo.
Định nghĩa của IDC và Gartner
Năm 2002, IDC lần đầu tiên đề cập tới cụm từ thiết bị di động hội tụ để tránh sử dụng cụm từ smartphone mà Microsoft thường dùng để mô tả các thiết bị cầm tay không dây dành cho doanh nghiệp. Kể từ đó cho tới nay, định nghĩa mà IDC tạo ra đã được bổ sung vài lần, và năm 2006 tổ chức này mô tả những thiết bị di động hội tụ nhất thiết phải có hệ điều hành cấp độ cao.
Ngày nay, định nghĩa về thiết bị di động hội tụ (từ thay thế cho smartphone) của IDC như sau: “Là một phần của ĐTDĐ, các thiết bị di động hội tụ được trang bị hệ điều hành cấp độ cao cho phép thiết bị có thể chạy được các ứng dụng bên thứ ba ngoài chức năng thoại thông thường. Các ví dụ về hệ điều hành cấp đôi cao bao gồm Android, BlackBerry, Linux, Mac OS X, Palm, Symbian, và Windows Mobile. Các thiết bị đi dộng hội tụ chia sẻ nhiều tính năng với các dòng điện thoại di động truyền thống, chẳng hạn như khả năng quản lý thông tin cá nhân, multimedia, game, và các ứng dụng văn phòng, nhưng sự có mặt của hệ điều hành cấp độ cao chính là điểm phân biệt những thiết bị này với phần còn lại”.
Theo IDC, “hệ điều hành cấp độ cao” gồm 3 phần, và được định nghĩa như một hệ điều hành có khả năng chạy các ứng dụng thứ ba chứ không chỉ là các ứng dụng do nhà sản xuất hệ điều hành viết nên. Các ứng dụng này phải có khả năng chạy độc lập trên mạng không dây; và hệ điều hành phải chạy được nhiều ứng dụng cùng lúc.
Trong khi đó, Gartner sử dụng định nghĩa kết hợp giữa dòng smartphone thông thường và cao cấp. Theo Gartner, thì một chiếc smartphone thông thường phải chạy được hệ điều hành mở, trong khi một chiếc smartphone cao cấp còn hỗ trợ một hoặc nhiều tính năng, chẳng hạn như nhạc, video, game, ảnh, lướt Web, truyền hình di động, tin nhắn… Chúng thường có màn hình lớn hơn, bộ xử lý mạnh hơn, nhiều bộ nhớ hơn và pin tốt hơn.
Gartner cũng quy định rằng những chiếc smartphone cao cấp nhất thiết phải có màn hình cảm ứng, hoặc bàn phím Qwerty đầy đủ. Cả IDC và Gartner đều nhất trí rằng chiếc LG Rumor2 không phải là smartphone.
Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2010
Tìm hiểu về 3G
Tìm hiểu về 3G
3G là giai đoạn mới nhất trong sự tiến hóa của viễn thông di động. 1G của điện thoại di động là những thiết bị analog, chỉ có khả năng truyền thoại. 2G của ĐTDĐ gồm cả hai công năng truyền thoại và dữ liệu giới hạn dựa trên kỹ thuật số.
Phần lớn ĐTDĐ ngày nay đều có tiêu chuẩn 2G và sử dụng chuẩn GSM - hệ thống di động kỹ thuật số được sử dụng rộng rãi nhất. Liên minh Viễn thông Quốc tế bắt đầu phát triển các tiêu chuẩn kỹ thuật cho hệ thống di động 3G vào giữa thập niên 90. 3G được thiết kế để cung cấp băng tần cao hơn, hỗ trợ cho cả hai dịch vụ thoại và dữ liệu multimedia, như audio và video. Tốc độ tải về của thiết bị 3G là 128 Kbps (khi sử dụng trong ôtô), 384 Kbps (khi thiết bị đứng yên hoặc chuyển động với tốc độ đi bộ) và 2 Mbps từ các vị trí cố định.
Có thể làm gì với 3G?
3G giúp chúng ta thực hiện truyền thông thoại và dữ liệu (như e-mail và tin nhắn dạng văn bản), download âm thanh và hình ảnh với băng tần cao. Các ứng dụng 3G thông dụng gồm hội nghị video di động; chụp và gửi ảnh kỹ thuật số nhờ điện thoại máy ảnh; gửi và nhận e-mail và file đính kèm dung lượng lớn; tải tệp tin video và MP3; và nhắn tin dạng chữ với chất lượng cao.
Các thiết bị hỗ trợ 3G cho phép chúng ta download và xem phim từ các chương trình TV, kiểm tra tài khoản ngân hàng, thanh toán hóa đơn điện thoại qua mạng và gửi bưu thiếp kỹ thuật số.
Các từ về 3G và định nghĩa
CDMA: Công nghệ di động kỹ thuật số sử dụng các kỹ thuật trải băng tần. Các kỹ thuật này sử dụng hết băng tần có được dành cho mỗi kênh, thay vì phân bổ một tần số đặc thù cho từng người sử dụng.
EDGE: Phiên bản nâng cấp của dịch vụ vô tuyến GSM, có khả năng phân phối dữ liệu với tốc độ 384 Kbps trên các mạng băng thông rộng.
GPRS: Tiêu chuẩn truyền thông vô tuyến có khả năng truyền dữ liệu với tốc độ 115 Kbps, và dùng để gửi và nhận các gói dữ liệu nhỏ, như e-mail và download rất hiệu quả.
GSM: Tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi dành cho các hệ thống ĐTDĐ kỹ thuật số, sử dụng TDMA băng hẹp để thực hiện 8 cuộc gọi cùng một lúc trên cùng một tần số.
MMS (Dịch vụ nhắn tin multimedia): Phương pháp gửi tập tin âm thanh và hình ảnh cùng các tin nhắn dạng văn bản ngắn trên mạng vô tuyến sử dụng giao thức WAP.
TDMA: Dịch vụ vô tuyến kỹ thuật số sử dụng việc dồn kênh phân chia theo thời gian (Time Division Multiplexing) để chia tần số vô tuyến thành những khe thời gian (time slot) và phân bổ các khe đến nhiều cuộc gọi, cho phép tần số đơn hỗ trợ nhiều cuộc gọi cùng một lúc.
WCDMA (CDMA băng rộng): Công nghệ vô tuyến di động 3G tốc độ cao có thể hỗ trợ với tốc độ 2 Mbps để truyền thoại, video và dữ liệu.
WiFi (Wireless Fidelity): Từ chung chỉ các mạng vô tuyến nội vùng (còn gọi là WLAN), có khả năng truyền dữ liệu với tốc độ lên đến 1 Mbps.
Tin tức 3G trên mạng
3G (http://www.3g.co.uk): Theo dõi toàn diện đối với tin tức công nghiệp và sản phẩm mới từ Mỹ, châu Âu và châu Á.
3G Newsroom.com (http://www.3gnewsroom.com): Nội dung phong phú với nhiều thông tin căn bản về sự phát triển của các tiêu chuẩn và điện thoại 3G.
3G today (http://www.3gtoday.com): Giới thiệu sản phẩm 3G mới với nước xuất xứ, thương hiệu và ngày đưa ra bán. Site do Qualcomm phát triển
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)